Về những tìm tòi hình thức trong Thơ hiện nay

Đánh giá thực trạng của thơ trong cả một giai đoạn hai mươi năm (từ 1975 tới nay) là một việc lớn, có nhiều mặt phải tính… ở đây, tôi chỉ xin phép nói một điều tôi thường chăm chú theo dõi, là sự phát triển của hình thức thơ. Hình thức thơ không chỉ bao gồm thể thơ, khổ thơ, câu thơ, mà còn là những nguyên tắc hình thành bài thơ, giọng điệu của thơ. Hình thức hiểu theo nghĩa ấy gắn bó với nội dung là một bộ phận của nội dung, khi những đổi mới về nội dung hiện ra thành những đổi mới trong hình thức. Chỉ sự đổi mới ấy mới gọi là trọn vẹn.

Để bắt đầu, chúng ta hãy trở lại với những giai đoạn lớn của thơ Việt Nam:

– Từ 1932 về trước – thơ cổ điển
– Từ 1933 trở đi – thơ hiện đại, mà ta quen gọi Thơ mới

Nếu xét về thi pháp theo nghĩa khoa học của từ này, thì từ sau Thơ Mới, là một sự liền mạch. Dù rằng, từ sau 1945, nội dung chính trị trong thơ có khác (ta hay nói lập trường khác, thế giới quan khác), song về thi pháp, vẫn cái mạch ấy.
Cụ thể là:
– Thơ của các nhà thơ hàng đầu như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên… hình thức đều là thơ mới.
– Ngay sau cách mạng, rồi trong kháng chiến chống Pháp có thấy những tìm tòi cục cựa ở lớp nhà thơ trẻ hơn, ở Trần Mai Ninh, ở Hồng Nguyên, và rõ nhất ở Nguyễn Đình Thi. Cuối những năm 50, có ở Văn Cao, ở Trần Dần, Lê Đạt, Yến Lan.
Nhưng nói chung, cả trong kháng chiến lẫn khi mới hoà bình, những tìm tòi này không được ủng hộ, nên thui chột dần, hoặc chìm vào đơn độc.
– Lứa thơ tiếp theo, mà bây giờ ta gọi là các nhà thơ chống Mỹ, với những tên tuổi đã trở thành quen thuộc, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ,… về căn bản cũng là Thơ Mới.
Nói thơ ta sau 1945 vẫn là cái mạch của thơ mới là vì thế. Tôi xin nhắc lại – đây là nói đại trà, nói phần căn bản.
Xét cặn kẽ, cũng có những biến chuyển, những tìm tòi mà chúng ta phải ghi nhận và trân trọng. Nhưng xét về hiệu quả, về những gì còn lại trong lịch sử văn học thì dù rất quý nhau, cũng phải nói bấy nhiêu tìm tòi còn là bé nhỏ, chưa tạo ra sự đổi khác thực sự, như sự đổi khác mà Thơ mới mang tới cho thơ Việt Nam những năm 1932-1935.

II
Trở lại với thơ từ sau 1975. Hai mươi năm qua, là hai mươi năm khởi đầu của một giai đoạn mới trong lịch sử (việc chuyển này từ từ, phải mò mẫm tìm tòi, nhưng nói chung là có chuyển). Thơ cũng đang có vận động.
ở nhiều người làm thơ, theo sự cảm nhận của tôi, đang thức dậy một ý hướng chung là không muốn làm theo lối cũ nữa. Do cách sống khác, cách nghĩ khác. Mà cũng do sự cổ vũ của không khí sáng tạo. Cái khao khát muốn làm lại mọi chuyện như hiện nay (quan sát trong ăn mặc, nhất là cách ăn mặc của phụ nữ, thì nay cũng là một thời điểm của sự thay đổi).
Nói nôm na là chúng ta muốn làm một số việc đổi mới về hình thức. Nhưng muốn là một chuyện còn làm được hay không là chuyện khác. Lực bất tòng tâm thời nào cũng có. Quan sát từng thế hệ các nhà thơ, có thể thấy:
– Các nhà thơ khởi nghiệp từ hồi Thơ Mới, một số đã qua đời, một số còn sống, nhưng theo tôi nghĩ, đóng góp của các vị đã thuộc về lịch sử, ngoài ra, không nên đòi hỏi gì thêm nữa.
– Các nhà thơ xuất hiện sau 1945, và ít nhiều đã cựa quậy, đã muốn làm thêm vào cho thơ một cái gì về hình thức nhất là đã làm được ít nhiều, như Nguyễn Đình Thi, như Hoàng Cầm, Lê Đạt – những nhà thơ ấy nay cũng đã vào giai đoạn “ngoại lục tuần” cả rồi.
– Lớp chống Mỹ, không đặt vấn đề tìm tòi hình thức trong lúc còn trẻ nên trừ một hai trường hợp cá biệt còn giờ đây cũng không quan tâm tới chuyện này nhiều lắm.
– Còn lớp nhà thơ trẻ, mới xuất hiện mươi năm gần đây? Đúng là họ tha thiết muốn thay đổi hơn ai hết. Nhưng họ không được chuẩn bị, nhất là chuẩn bị về học vấn, kiến thức, bài bản. Bởi vậy những tìm tòi của họ ngẫu nhiên, thất thường, không có đường nét rõ rệt. Cũng một người năm ngoái năm kia ai cũng tưởng là khá là lạ, năm nay lại đã nhàm chán cũ kỹ, không được để ý tới nữa.
Những nhận xét này của tôi có vẻ hơi nghiệt ngã, nhưng trong một cuộc hội thảo thân mật, xin cứ được nói. Tôi sẽ rất phấn khởi, nếu năm bảy năm nữa, một người nào đó chỉ vào mặt mà bảo là tôi sai hết rồi. Vì khi ấy, tức là thơ có tiến tới.

III
Vậy phải làm gì, để thúc đẩy những tìm tòi hình thức trong thơ?
Người ta hay ví thơ với những giống hoa lạ. Nhưng đấy là nói về sự quyến rũ, về vẻ hấp dẫn. Còn để có những thay đổi, thì ở đây, cũng cần sự đầu tư công sức liên tục, trong thời gian dài. Và quy luật ở đây là quy luật cây lưu niên, sau khi gieo hạt, hàng chục năm sau mới có kết quả.
Hơn thế nữa, ở đây không nên và không thể có sự tìm tòi đơn độc. Vẫn là từng nhà thơ ngồi trước trang giấy, song người nọ thường là tựa hơi vào người kia mà sáng tạo. Thành quả của họ cần được sự ủng hộ của một dư luận lành mạnh. Suy cho cùng, một nhành hoa lạ chưa là gì cả, phải nhiều đoá hoa cùng phô ra vẻ đẹp thì chúng ta mới có mùa xuân.
Đứng về hoạt động chung của cả giới – giới những người làm thơ và yêu thơ – tôi đề nghị:
– Bớt những lời huyễn hoặc khen tụng lẫn nhau đầy rẫy trên các mặt báo và thông tin đại chúng nói chung.
– Có những cuộc trao đổi kỹ lưỡng, nói năng có chuẩn bị và bàn đến nơi đến chốn, về một số hiện tượng mới trong thơ.
Ví dụ, mấy năm trước nhiều người cùng có một nhận xét là thơ Hoàng Cầm trong Mưa Thuân Thành, trong Lá diêu bông là lạ. Cái lạ, dĩ nhiên có người thích, người khó chịu. Tôi nhớ lại cái chuyện mà nhiều bạn đã biết: Trước năm 1945, thơ Hàn Mặc Tử đã gây ra khó chịu với Xuân Diệu. Nhưng Xuân Diệu hồi đó chỉ thao túng được các trang phê bình của Phong hoá, Ngày nay, là cơ quan Tự Lực Văn Đoàn, mà ngoài ra, đương thời, còn có nhiều tờ báo khác, có đăng bài phê bình, nên tài liệu về Hàn Mặc Tử nay còn nhiều. Còn có cả một công trình nghiên cứu của Trần Thanh Mại viết năm 1940, nó là chỗ dựa tốt, để nhiều người tìm hiểu Hàn Mặc Tử về sau. Nhắc lại điều này để thấy: bất cứ lĩnh vực nào, cũng đã không nên có độc quyền chân lý, và ở thơ, lĩnh vực của sự sáng tạo, lại càng không nên có độc quyền.
Tôi không khẳng định ngay ở đây rằng thơ Hoàng Cầm là hay, là tuyệt tác, hình thức thơ của Hoàng Cầm là tân kỳ, sáng tạo. Song tôi biết rằng dù thích hay không nhiều người vẫn thấy thơ Hoàng Cầm là lạ, là có một cái gì khang khác trong giọng điệu, trong hình thức. Thế thì tại sao chúng ta không mang ra thảo luận? Đây là trách nhiệm của các tờ báo, các cơ quan ngôn luận. Việc đã qua, với Hoàng Cầm nay lại đang xảy ra, với một số tập thơ như thơ Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Trần Dần. Hoàng Hưng mới xuất bản. Tôi đề nghị phải thảo luận cho kỹ, cho ra nhẽ. Đây không phải vì mấy người có thơ, không phải một sự đề cao, hay yêu cầu tặng giải nào cả. Mà đây là vì nền thơ nói chung.
Gần đây, có một cuộc trao đổi nho nhỏ chung quanh thơ Nguyễn Quang Thiều in trong tập Sự mất ngủ của lửa. Nếu phải nói về hiện tượng này – cả thơ Nguyễn Quang Thiều lẫn những bàn bạc chung quanh Nguyễn Quang Thiều – thì tôi xin được nói một ý, gồm mấy vế như sau:
1. Nên ủng hộ những tìm tòi của Nguyễn Quang Thiều. Có một hướng tìm tòi trong thơ là thơ không vần, thơ có hình hài gần giống văn xuôi. Nguyễn Quang Thiều đi theo hướng đó.
2. Nhưng tìm tòi của Nguyễn Quang Thiều là chưa chín, chưa thuyết phục.
3. Việc một hai tờ báo đăng bài cho Nguyễn Quang Thiều, là tự nhiên, là bình thường; không có, mới là lạ. Tuy nhiên, chưa có những bài phê bình thật có giá trị.
3. Những khen chê gì thì khen, vẫn là phải trên cái hướng ủng hộ tìm tòi. Tôi đọc – đằng sau dòng chữ – có những nhận xét về thơ Nguyễn Quang Thiều dựa trên những quan niệm về thơ khá cũ, cái đó thì lại là chuyện đáng tiếc.

IV
Qua mấy hiện tượng vừa nêu, Hoàng Cầm, Nguyễn Quang Thiều, có thể thấy rõ: vận mệnh của thơ nói chung, của những tìm tòi hình thức trong thơ nói riêng, khôg chỉ phụ thuộc vào sự lao tâm, khổ tứ của từng người mà còn vào cái môi trường của sự sáng tạo, cái không khí trao đổi, cái dư luận được tạo ra trong giới. Mà đây là chuyện ở ta còn nhiều lúng túng. Một số cuộc họp ý kiến phát biểu còn đang lộn xộn chưa làm rõ được điều gì cả.
Để thúc đẩy sự đổi mới trong thơ lại còn hai vấn đề khác, không cấp bách bằng, nhưng về lâu dài, cũng có ý nghĩa không kém.
1. Việc nghiên cứu gia tài thơ cổ điển và sự phát triển của thơ Việt Nam từ trước tới nay. Trong sự cảm nhận hàng ngày, chúng ta biết thơ cổ rất khác thơ mới nhưng thi pháp thơ cổ điển Việt Nam ra sao chưa ai nghĩ, thi pháp thơ mới ra sao, chưa ai đề cập. Một cuốn sách rất nổi tiếng như Thi nhân Việt Nam rất hay, rất tinh tế về từng nhà thơ, nhưng cái gọi là thi pháp chung của nền thơ vừa hình thành thì cũng vẫn là nằm ngoài khu vực quan tâm của tác giả.
Lại còn những tìm tòi và nói chung sự phát triển của thơ từ 1945 đến nay nữa. Nhiều những bài báo những trang sách mờ nhạt, nhưng một cuốn tương tự Thi nhân Việt Nam cũng chưa có.
Tôi không nói gì mỗi khi bảo rằng, chúng ta chỉ có thể tìm tòi, tiến tới về phía trước, nếu hiểu biết thấu đáo sự sáng tạo của lớp người đi trước.
2. Việc nghiên cứu và dịch thơ nước ngoài Có một ý kiến khá phổ biến khi bàn về chuyện này: là cường điệu tính độc đáo của thơ Việt Nam cho rằng đọc nước ngoài để biết thôi, còn thơ ta có con đường khác. Tôi không nghĩ thế. Tôi cho rằng những hướng phát triển của thơ là chung cho thơ ở tất cả các nước. Vậy sự hoà nhập phải đặt ra, trước sau phải tính tới những tìm tòi kỳ lạ trong thơ Pháp và các nước châu Âu, thơ Mỹ La tinh v.v… thế kỷ 20 là rất bổ ích, và có tác dụng thiết thực đến thơ ta hiện nay.
Trong sự cởi mở của xã hội, khoảng mươi năm nay, hội hoạ của nước ta, bộc lộ một ý hướng rất rõ: họ muốn vẽ như thế giới người ta vẽ. Kết quả còn bập bõm. Nhiều khi sự bắt chước lộ liễu trở thành lố lăng. Nhưng cái tâm thế ấy của giới mỹ thuật là đúng, là đáng quý.
Một sự định hướng tương tự, chưa có trong văn học nói chung, trong thơ nói riêng. Thấy có gì kỳ cục một chút, là ta dè bỉu, chê bai. Người ta quên rằng, để có được những bài thơ hay trong Thơ thơ, Lủa thiêng, Ngày xưa, Điêu tàn v.v… các nhà thơ mới cũng đã phải qua cái trường học xa lạ của thơ Pháp. Có những người như Nguyễn Vỹ (và một số khác) học xong không tiêu hoá, không trở lại thành nhà thơ Việt Nam được. Nhưng công việc của họ không phải là vô ích. Họ giúp cho Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên tránh được những lầm lạc để trở nên nhuần nhị hơn, Việt Nam hơn.
Cái bi kịch của chúng ta là không ai chịu làm Nguyễn Vỹ cả, nên những Thơ thơ, Lửa thiêng cũng khó xuất hiện.
Một điều cũng nên nói ngay là tiếp cận với thơ nước ngoài không thể thông qua các bản dịch. Các nhà thơ phải học lấy, phải đọc thơ trong nguyên bản, để rồi nếu cần thì dịch lấy những gì họ ưa thích. Những hạn chế trong việc tiếp xúc nước ngoài thời gian vừa qua đẻ ra một hiện tượng kỳ cục: các nhà thơ mới đã dịch thơ Pháp thế kỷ 19 về trước, thơ Pháp đầu thế kỷ 20, lại đứng ra dịch thơ Pháp nửa sau thế kỷ 20, tức là những nhà thơ Pháp hiện đang còn sống. Tôi nghĩ đấy là điều bất đắc dĩ. Số phận của những đổi mới trong thơ nhất là hiệu quả của những tìm tòi về hình thức, chỉ có thể có, chừng nào mà các nhà thơ hôm nay, cũng sống hết lòng với các nhà thơ thế giới đương đại, như sáu bảy chục năm trước trên ghế nhà trường Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên đã thông thuộc thơ của những Verlaine, Rimbaud, Valéry, Claudel, và sau này khi đã là những nhà thơ truởng thành rồi, vẫn luôn luôn đối thoại trong tưởng tưởng với Aragon, Eluard, J. Prévert và nhiều người khác, (xin nhắc lại là họ đọc những nhà thơ ấy trong nguyên bản, chứ không phải các bản dịch!)

VƯƠNG TRÍ NHÀN
Nguồn vuongtrinhan’blog 

10 comments

  1. ” Trần Dần tên thật là Trần Văn Dần (23 tháng 8 năm 1926-17 tháng 1 năm 1997), là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam.Ông học qua bậc Thành chung ở quê rồi lên Hà Nội học tiếp và đỗ Tú tài Triết.”
    (Wikipedia)
    ” Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, (sinh 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang – mất 6 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội), là một nhà thơ Việt Nam.Quê gốc của Hoàng Cầm ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân Dân Xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là tên một vị thuốc đắng trong thuốc bắc: Hoàng Cầm.”
    (Wikipedia)

    “Năm 1946, Trần Dần cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương thành lập nhóm thơ Tượng Trưng (Symbolist) (1) Dạ đài với tuyên ngôn 16-11-1946 với những câu: “Chúng tôi, một đoàn vong gia thất thổ, đã đầu thai nhằm lúc sao mờ…”. Đến ngày 19-12-1946, ông cùng nhóm Dạ đài ra số báo Dạ Đài 2, khi Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông trở về Nam Định tham gia công tác thông tin tuyên truyền ở huyện Vụ Bản rồi làm việc ở Sở Tuyên truyền Khu IV.”
    (Wikipedia)

    ___________________________

    _Các vị Hòang Cầm, Trần Dần đều là những người có văn hóa cao, học chương trình Pháp nên có thể đọc sách Pháp dễ dàng. Trần Dần theo ban triết học nên tiếp cận tư tưởng của nhiều triết gia phương Tây khác ngòai Karl Marx. Các vị Trần Dần, Hòang Cầm ảnh hưởng văn hóa Pháp sâu đậm trong khi nước Pháp là cường quốc văn học của châu Âu. Ngòai ra khi trưởng thành, Trần Dần, Hòang Cầm còn theo nghiệp văn chương, dịch sách văn học thì chắc hẳn ông phải là người có tài, nếu không bị người khác bẻ bút thì có lẽ các vị ấy đã đóng góp không nhỏ cho nền văn học nước nhà.

    _____________________________

    (1) PHONG TRÀO THƠ TƯỢNG TRƯNG:
    Là phong trào thi ca ở Pháp và Bỉ vào cuối thế kỷ 19 do các thi sĩ Mallarmé, Valéry, Verlaine, Rimbaud, Maeterlinck, và những người khác khởi xướng, và tìm cách thể hiện trạng thái của tâm trạng, của suy nghĩ chứ không phải là mô tả thực tế khách quan. Phong trào thơ Tượng Trưng sử dụng sức mạnh của ngôn từ và hình ảnh để truyền đạt cũng như biểu thị ý nghĩ con người.
    SYMBOLIST MOVEMENT
    a movement beginning in French and Belgian poetry towards the end of the 19th century with the verse of Mallarmé, Valéry, Verlaine, Rimbaud, Maeterlinck, and others, and seeking to express states of mind rather than objective reality by making use of the power of words and images to suggest as well as denote ) (http://www.thefreedictionary.com/symbolist+movement )

  2. Đa số các thi phẩm của thi sĩ Hòang Cầm thuộc trường phái trữ tình lãng mạn ( lyrical romantic school), thơ của ông long lanh, lóng lánh như dòng sông sông Đuống trong một buổi chiều phai nắng. Nhưng thật bất ngờ, với bài thơ Lá Diêu Bông, ông đã chuyển từ trường phái trữ tình lãng mạn sang trường phái siêu thực (surealist school), đây là một phong trào thi ca xuất hiện mãi từ đầu thế kỷ 20, khi ấy thi sĩ Hòang Cầm còn rất trẻ, nhưng ông đã mau chóng du nhập vào dòng văn học Việt Nam, hầu như ai ai cũng biết tuyệt tác này của ông,
    ______________________

    _CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC (SUREALISM)
    Phong trào văn học nghệ thuật xuất hiện ở thế kỷ 20, các nghệ sĩ cố gắng diễn tả tiềm thức và được đặc trưng bởi những hình ảnh lập dị và không tưởng liên tiếp diễn ra của một đề tài.
    _SUREALISM
    A 20th-century literary and artistic movement that attempts to express the workings of the subconscious and is characterized by fantastic imagery and incongruous juxtaposition of subject matter.

    http://www.thefreedictionary.com/surrealist
    _________________________

    LÁ DIÊU BÔNG

    Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
    Chị thẩn thơ đi tìm
    Đồng chiều
    Cuống rạ
    Chị bảo
    – Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
    Từ nay ta gọi là chồng

    Hai ngày Em tìm thấy Lá
    Chị chau mày
    – Đâu phải Lá Diêu bông
    Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
    Chị lắc đầu
    Trông nắng vãn bên sông
    Ngày cưới chị
    Em tìm thấy Lá
    Chị cười
    Xe chỉ ấm trôn kim
    Chị ba con
    Em tìm thấy Lá
    Xoè tay phủ mặt
    Chị không nhìn
    Từ thuở ấy
    Em cầm chiếc Lá
    Đi đầu non cuối bể
    Gió quê vi vút gọi
    Diêu bông hời…!
    … Ới Diêu bông!…
    ( Hòang Cầm )

  3. Ông Vương Trí Nhàn nói rằng thơ của thi sĩ Hòang Cầm “lạ” là chưa đủ và chưa đúng! Phải nói rằng thi sĩ Hòang Cầm là một nhà thơ tài năng và uyên bác thì mới xứng tầm!

  4. http://encyclopedia2.thefreedictionary.com/Romanticism

    CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG VĂN CHƯƠNG (Ở CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY)

    1_CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC ANH QUỐC:

    Mặc dù các yếu tố lãng mạn trong văn chương ở Anh đã được biết đến từ rất sớm, chẳng hạn như kịch tuồng thời nữ hòang Elizabeth (1533-1603), nhưng các nhà phê bình văn học ngày nay cho rằng Văn học lãng mạn của Anh chính thức bắt đầu từ ấn phẩm thơ trữ tình Lyrical Ballads (1) của Wordworth và Coleridge vào năm 1798. Trong lời nói đầu đầu của lần xuất bản thứ nhì (1800) của tác phẩm xuất sắc này, Wordsworth nói với độc giả rằng tác phẩm thơ của ông là kết quả của ” sự dâng trào cảm xúc mãnh liệt” và ngôn từ tự nhiên tuôn chảy trong tác phẩm thơ ông. Coleridge thì nhấn mạnh rằng thơ ông được viết ra từ sự tưởng tượng, thăng hoa của tâm hồn mà không có niêm luật khắt khe của văn chương nào ràng buộc nổi.
    Các nhà thơ lãng mạn như Byron, Shelley, Robert Burns, Keats, Robert Southey, và William Cowper thường tập trung vào cái tôi riêng biệt, vào phản ứng của nhà thơ với cuộc sống. Cái tôi riêng biệt này đậm nét trong các tác phẩm văn xuôi chẳng hạn như các bài tiểu luận của Charles Lamb và William Hazlitt và của Thomas De Quincey với tác phẩm Lời Thú Tội của Kẻ Ăn Thuốc Phiện ( English Opium Eater ) xuất bản năm 1822. Việc hiểu biết về các nhà thơ lãng mạn thời Trung cổ ( khỏang năm 455 _ 1485 sau CN ) là sự bí ẩn, phiêu lưu và khát vọng được thể hiện trong thi ca mơ mộng “Gothic romance ” (2) và được tái hiện trong các tiểu thuyết lịch sử của Sir Walter Scott (1771_1832) sau này. William Blake (1757_1827) có lẽ là một trong số những người Anh lãng mạn ít ỏi. Thi ca của ông mang sắc màu rạng rỡ, giàu sức tưởng tượng, và đậm nét trường phái tượng trưng (symbolism ), chỉ ra thực tại tinh thần làm nền tảng cho thực tại vật chất

    2_CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC ĐỨC

    Tại nước Đức có trường phái lãng mạn Sturm und Drang (3), với sự quan tâm ám ảnh về nghiên cứu thời trung cổ, đã chuẩn bị mở đường cho chủ nghĩa lãng mạn. Friedrich Schlegel (1772_1829) lần đầu tiên dùng thuật ngữ lãng mạn để chỉ một trường phái văn học trái ngược với văn học cổ điển và Friedrich Schlegel cũng đưa triết học của Immanuel Kant và J. G. Fichte vào “lý tưởng lãng mạn”. Các nhà văn lớn của Đức theo chủ nghĩa lãng mạn gồm G. E. Lessing, J. G. Herder, Friedrich Hölderlin, Schiller, và đặc biệt là Goethe, một người có cảm xúc thần bí với thiên nhiên và quá khứ thời trung cổ nước Đức.

    CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN Ở NƯỚC PHÁP VÀ CÁC QUỐC GIA CHÂU ÂU KHÁC.

    Cương lĩnh của chủ nghĩa lãng mạn Pháp đã được Victor Hugo đưa ra trong lời mở đầu của vở kịch Cromwell (1828) và một vở kịch khác của ông là Hernani (1830). Hugo tuyên bố rằng nghệ sĩ hòan tòan phải được tự do trong lựa chọn chủ đề sáng tác và xử lý chủ đề đó trong quyền tự do sáng tạo. Các nghệ sĩ tiên phong trong phong trào lãng mạn ở Pháp gồm Chateaubriand, Alexandre Dumas père, Alphonse de Lamartine, Alfred de Vigny, Alfred de Musset, and George Sand. Những gương mặt nổi tiếng mở đầu phong trào lãng mạn ở các quốc gia châu Âu khác gồm Giacomo Leopardi and Alessandro Manzoni ở nước Ý, và Aleksandr Pushkin and Mikhail Lermontov ở nước Nga..

    CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN Ở HOA KỲ
    Chủ nghĩa lãng mạn ở Hoa Kỳ mang màu sắc của triết học tiên nghiệm ( transcendentalism ) (4), đáng chú ý là các tác phẩm của Emerson và Thoreau. Các thi sĩ như Poe, Whittier, và Longfellow sáng tác trong nguồn cảm hứng lãng mạn. Walt Whitman đặc biệt với các sáng tác của ông ca ngợi niềm tự hào cá nhân và tinh thần dân chủ. Các tác phẩm của James Fenimore Cooper phản ánh niềm hứng khởi lãng mạn trong quá khứ, trong khi các tiểu thuyết viết theo phong cách tượng trưng (symbolism) của Hawthorne và Melville nhấn mạnh sự quan tâm của phong trào với thực tại siêu việt (theo triết lý tiên nghiệm _ transcendentalism)
    ______________________________________________________
    GHI CHÚ:

    (1) Trong văn chương, ballad là một bài thơ chuyện kể ngắn, liên quan đến một sự kiện kịch nghệ. Ballad được phân biệt làm hai thể loại _ thể loại dân gian có từ thế kỷ 12, và ballad văn chương xuất hiện ở thế kỷ 18.
    (2) Thuật ngữ “Gothic romance” đại diện cho sự kết hợp của hai trong số những ảnh hưởng quan trọng trong sự phát triển nền văn minh Châu Âu, đó là đế chế La Mã (Roma) và các bộ tộc Đức (Goth) đã xâm chiếm châu Âu. Nguồn gốc của chữ lãng mạn (romance) là do chữ Roman (thuộc về La Mã) mà ra, còn chữ “Gothic” lại dính tới chữ “Goth” để chỉ một trong những bộ tộc Đức xâm chiếm và thống nhất các bộ tộc Đức còn lại . Chữ “Gothic” lần đầu tiên được sử dụng năm 1611 có liên quan đến ngôn ngữ của người Goth, các học giả đã mở rộng nghĩa của từ này, nó có nghĩa là “người Đức, nước Đức”, cũng có nghĩa là ” trung cổ, không có nghĩa là cổ điển”, nó cũng có nghĩa là “man rợ”, Gothic cũng là thuật ngữ chỉ phong cách kiến trúc không phải Hy Lạp , không phải La mã. Một tác giả người Anh là Horace Walpole đã dùng từ Gothic trong tiểu thuyết Lâu Đài của Otrano (The Castle of Otranto) , và tiểu thuyết khác của ông là Gothic Story (1765) với từ Gothic ở đây có nghĩa là “thời trung cổ, không có nghĩa là cổ điển”. Từ quyển tiểu thuyết Gothic Story đầy cảnh khủng bố và ảm đạm trong thời trung cổ này , đã sinh ra thể lọai tiểu thuyết Gothic mà tên gọi vẫn tồn tại cho đến ngày nay; từ cái tựa đề của cuốn tiểu thuyết Gothic Story đã sinh ra thể lọai tiểu thuyết Gothic.
    (3) Trường phái Sturm und Drang là phong trào lãng mạn trong văn học Đức xuất hiện vào cuối thế kỷ 18, các tác phẩm lãng mạn này mô tả cuộc đấu tranh của cá nhân nhạy cảm chống lại một xã hội gò bó.
    (4) transcendentalism = triết học (thuyết) tiên nghiệm = Một phong trào văn học và triết học, do Ralph Waldo Emerson và Margaret Fuller khởi xướng, khẳng định sự tồn tại của một thực tại tinh thần lý tưởng có thể biết được thông qua trực giác, vượt lên trên kinh nghiệm và kiểm nghiệm của khoa học.

    ___________________________________________________________

    ROMANTICISM IN LITERATURE
    ENGLAND:
    Although in literature romantic elements were known much earlier, as in the Elizabethan dramas, many critics now date English literary romanticism from the publication of Wordsworth and Coleridge’s Lyrical Ballads (1798). In the preface to the second edition of that influential work (1800), Wordsworth stated his belief that poetry results from “the spontaneous overflow of powerful feelings,” and pressed for the use of natural everyday diction in literary works. Coleridge emphasized the importance of the poet’s imagination and discounted adherence to arbitrary literary rules.

    Such English romantic poets as Byron, Shelley, Robert Burns, Keats, Robert Southey, and William Cowper often focused on the individual self, on the poet’s personal reaction to life. This emphasis can also be found in such prose works as the essays of Charles Lamb and William Hazlitt and in Thomas De Quincey’s autobiographical Confessions of an English Opium Eater (1822). The interest of romantics in the medieval period as a time of mystery, adventure, and aspiration is evidenced in the Gothic romance and in the historical novels of Sir Walter Scott. William Blake was probably the most singular of the English romantics. His poems and paintings are radiant, imaginative, and heavily symbolic, indicating the spiritual reality underlying the physical reality.

    GERMANY
    In Germany the Sturm und Drang school, with its obsessive interest in medievalism, prepared the way for romanticism. Friedrich Schlegel first used the term romantic to designate a school of literature opposed to classicism, and he also applied the philosophical ideas of Immanuel Kant and J. G. Fichte to the “romantic ideal.” Major German writers associated with romanticism include G. E. Lessing, J. G. Herder, Friedrich Hölderlin, Schiller, and particularly Goethe, who had a mystic feeling for nature and for Germany’s medieval past.

    FRANCE AND OTHER EUROPEAN COUNTRIES
    The credo of French romanticism was set forth by Victor Hugo in the preface to his drama Cromwell (1828) and in his play Hernani (1830). Hugo proclaimed the freedom of the artist in both choice and treatment of a subject. The French romantics included Chateaubriand, Alexandre Dumas père, Alphonse de Lamartine, Alfred de Vigny, Alfred de Musset, and George Sand. Other leading romantic figures were Giacomo Leopardi and Alessandro Manzoni in Italy, and Aleksandr Pushkin and Mikhail Lermontov in Russia.

    THE UNITED STATES
    In the United States romanticism had philosophic expression in transcendentalism, notably in the works of Emerson and Thoreau. Poets such as Poe, Whittier, and Longfellow all produced works in the romantic vein. Walt Whitman in particular expressed pride in his individual self and the democratic spirit. The works of James Fenimore Cooper reflected the romantic interest in the historical past, whereas the symbolic novels of Hawthorne and Melville emphasized the movement’s concern with transcendent reality.

  5. “- Thơ của các nhà thơ hàng đầu như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên… hình thức đều là thơ mới.
    – Ngay sau cách mạng, rồi trong kháng chiến chống Pháp có thấy những tìm tòi cục cựa ở lớp nhà thơ trẻ hơn, ở Trần Mai Ninh, ở Hồng Nguyên, và rõ nhất ở Nguyễn Đình Thi. Cuối những năm 50, có ở Văn Cao, ở Trần Dần, Lê Đạt, Yến Lan.”
    ( Vương Trí Nhàn)
    “- Các nhà thơ xuất hiện sau 1945, và ít nhiều đã cựa quậy, đã muốn làm thêm vào cho thơ một cái gì về hình thức nhất là đã làm được ít nhiều, như Nguyễn Đình Thi, như Hoàng Cầm, Lê Đạt – những nhà thơ ấy nay cũng đã vào giai đoạn “ngoại lục tuần” cả rồi.”
    ( Vương Trí Nhàn )
    ________________________
    1_ Điều thứ nhất: Ông Vương Trí Nhàn cho rằng thi sĩ Trần Dần khi ngoại lục tuần mới “tìm tòi cục cựa” là một cách nói hết sức hồ đồ. Chẳng qua vì ông Vương Trí Nhàn không đủ sức hiểu công việc của thi sĩ mà thôi. Thi sĩ Trần Dần đã đưa vào văn học Việt Nam trường phái Symbolist. Vào đầu thế kỷ hai mươi, trừơng phái này vẫn còn mới mẻ, khi ấy thi sĩ Trần Dần chỉ 20 tuổi (1946).
    2_ Điều thứ hai: Ông cho rằng Xuân Diệu là nhà thơ hàng đầu Việt Nam, điều này đúng nhưng chưa đủ! Thi sĩ Xuân Diệu không phải là duy nhất. Người ta biết đến Xuân Diệu như một nhà tiên phong của phong trào thơ mới, và ông là một nhà thơ lãng mạn trữ tình (lyrical romantic poet), ông chỉ theo một trường phái, đó là trường phái lãng mạn (romanticism) có từ cuối thế kỷ 18, và ông dừng lại ở đó. Chính nhà thơ Trần Dần đã là người sải bước chân dài sang cuối thế kỷ 19 với trường phái tượng trưng (symbolism), và còn kỳ diêu hơn nữa, khi thi sĩ Hòang Cầm tiếp tục bước chân vạn dặm sang ngay thế kỷ 20 với phong trào siêu thực (surrealism), khi này thi sĩ Hòang Cầm cũng chỉ 20 tuổi. Như vậy có thể nói, cho đến trước 1945, các thi sĩ Việt Nam đã có chung tiếng nói với các thi sĩ đương đại châu Âu mà không hề thua kém, lạc hậu.
    3_ Điều thứ ba: Ông Vương Trí Nhàn cho rằng các thi sĩ Trần Dần “cục cựa” hay thi sĩ Hòang Cầm làm thơ “lạ” có nghĩa là ông Vương Trí Nhàn cho rằng các thi sĩ đã dùng ngôn từ khéo léo như một cái “tài lẻ” _ tài lẻ, tài vặt _. Ông Vương Trí Nhàn không thấy được trí tuệ uyên bác của các thi sĩ Trần Dần và Hòang Cầm. Ông cũng không thấy được sự nỗ lực học hỏi và sáng tạo phương pháp tư duy mới, cách tiếp cận chân lý mới trong thi ca của các thi sĩ Trần Dần và Hòang Cầm ra sao, ông phê bình một cách võ đóan!
    4_ Điều thứ 4: Cách phê bình văn học của ông Vương Trí Nhàn thật cẩu thả, không tìm hiểu thân thế sự nghiệp của tác giả, không tìm hiểu tác phẩm mà phê phán theo hiểu biết hạn hẹp của mình thì thật là một điều đáng tiếc! Rất đáng tiếc!
    5_ Điều thứ 5: Ông Nhàn nên quan sát một thanh niên 20 tuổi ở đầu thế kỷ 21 và các vị Trần Dần, Hòang Cầm khi 20 tuổi ở đầu thế kỷ 20 thì mới thấy được sự vĩ đại của họ ra sao.

  6. ” Từ phong trào beat nổi lên một phong cách được gọi là spoken words, đó là một loại thi ca vừa là thơ vừa là một kiểu tuyên ngôn (thường đề cập đến đề tài chính trị) ”
    “From the beat movement emerged a style known as spoken word, which is a type of poetry that is both performed and makes some kind of a statement (typically something political. ”
    http://entertainment.howstuffworks.com/arts/literature/poetry8.htm
    _________________________
    Nếu đọc lại các vần thơ của cố thi sĩ Trần Dần, những vần thơ ấy cũng rất gần với các thi sĩ Mỹ cùng thế hệ ở thập niên 50, 60 của thế kỷ 20.
    Thế mới biết, những tư tưởng lớn thường gặp nhau (dù không hẹn mà vẫn gặp).
    Và, theo Victor Hugo thì người nghệ sĩ có quyền lựa chọn chủ đề sáng tác và có quyền xử lý đề tài ấy nhân danh quyền tự do sáng tạo của người nghệ sĩ.

  7. Thơ thì chỉ có “cảm” và “không cảm”. Anh “cảm” thơ người ta thì anh thấy hay. Anh không “cảm” thì anh không có cảm xúc. Đâu có ai mà đem cưa, đục, xà beng vào đào bới! Sở dĩ sau Hòai Thanh_ Hòai Chân không ai viết được một cuốn Việt Nam Thi Nhân Hợp Tuyển là vì chẳng ai có khả năng “dạy” người khác cảm thụ văn chương như hai vị này cả! Với lời văn nhẹ nhàng, tinh tế, trân trọng các tác giả, thì tự thân lời bình của Việt Nam Thi Nhân Hợp Tuyển đã là áng văn chương tuyệt tác rồi !!!!

  8. Cũng chẳng ngạc nhiên khi thấy nhiều thi sĩ trên thế giới (nhất là ở Mỹ) trở thành các chính trị gia. Vì chính họ là các nhà dự cảm, các nhà tư tưởng, những người kiên trì đeo đuổi mục tiêu nhân bản và là những người có tầm nhìn rộng lớn mà Gabriel García Márquez đã nói rất đúng về bản chất của một nhà thơ:

    “Trước khi chết hắn vẫn còn lải nhải rằng không có con người nào tinh tế, nhạy cảm hơn, không có cỗ máy cắt đá nào lì lợm, bướng bỉnh hơn, không có nhà quản lý nào sáng suốt và nguy hiểm hơn một nhà thơ.”
    ( Gabriel Garcí­a Márquez_ Tình Yêu Thời Thổ tả)
    ______________________________
    “He repeated until his dying day that there was no one with more common sense, no stone cutter more obstinate, no manager more lucid or dangerous, than a poet.”

    ( Gabriel Garcí­a Márquez _Love in the Time of Cholera)

Bình Luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close Menu