>> Văn hóa cổ và văn hóa thời hiện đại (1)
Con người thời lịch sử, nhất là thời hiện nay sống trong một sự nhầm lẫn, rằng sự canh tác đích thực tự mình cần tạo ra, mục đích tự mình cần lập ra, tiêu chuẩn tự mình cần xây dựng, và các lý tưởng tự mình cần nghĩ ra. Họ quay cái TÔI của họ vào việc đi tìm tinh thần, mục đích, tiêu chuẩn và các lý tưởng. Sau đó gọi sự tìm kiếm những thứ họ tự đặt ra là văn hóa.
Họ không biết rằng: tinh thần của canh tác tích cực thế giới vật chất không cần tìm kiếm. Ngay từ thuở ban đầu, tinh thần như một lời tuyên ngôn đã có sẵn, và nếu như nó không được gìn giữ trong các cuốn sách thiêng đi chăng nữa, nó vẫn được giữ như tình cảm bất biến bất tử của linh hồn con người.
Cần phải làm gì, cần tiếp tục hoạt động gì, cần duy trì tiêu chuẩn nào, cần thực hiện những lý tưởng nào, điều này cái tinh thần của tình yêu thương trong con người đều biết đến từ sự vĩnh cửu.
Các sức mạnh trong con người có đâu phải để tìm ra một tinh thần mới. Và điều này cũng không thể; một tinh thần mang tính chất cá nhân chỉ là sự bóp méo của một định luật tinh thần siêu việt duy nhất mà người Ấn độ gọi là dharma. Và khi con người thời kỳ lịch sử đặt ý chí của cái TÔI cá nhân vào vị trí của định luật tinh thần phổ quát, họ đã phá hỏng tinh thần.
Các sức mạnh không dùng để tìm ra tinh thần mới mà để thực hiện tinh thần vĩnh cửu và phổ quát. Truyền thống bảo vệ thứ tinh thần vĩnh cửu và phổ quát này, thứ tinh thần ngay từ thuở ban đầu đã từng có, vẫn đang có và sẽ tiếp tục có như một lời tuyên ngôn.
Như vậy văn hóa không phải là sự tìm ra, tạo ra một tinh thần, một mục đích tiêu chuẩn chưa bao giờ có ở đâu, mà: văn hóa là việc hiện thực hóa thứ tinh thần đã được truyền thống giữ gìn.
Lấy một ví dụ đơn giản: Các thư viện khoa học lớn của thời hiện đại giữ gìn những biểu hiện tinh thần gắng sức khủng khiếp trong hàng triệu tập sách. Để thực hiện điều này con người phải bỏ vào đấy một số lượng lớn các nhà bác học, rất nhiều công việc, công sức, thời gian, giấy mực, công việc in ấn. Và không bao giờ có thể đo đếm hết nổi những hy vọng, đam mê, lương tâm, kỷ luật, suy tư đi kèm với việc thực hiện những cuốn sách này.
Vậy mà chẳng có gì chắc chắn, giữa hàng triệu cuốn sách này có một tác phẩm là hiện thực của nhân loại trong đời sống. Toàn bộ nền văn hóa nhân đạo thời hiện đại, tâm lý học, khoa học xã hội, văn học, triết học, đạo đức học, mỹ học, ngôn ngữ học, khoa học tôn giáo đều không thể thực hiện nổi, thậm chí không bao giờ thực hiện nổi, không bao giờ có thể hiện thực hóa, và tất cả các tác phẩm đều được tạo ra để không bao giờ có thể hiện thực hóa chúng.
Hàng triệu tác phẩm này vô ích, thừa thãi, trong một khía cạnh nào đấy vô nghĩa một cách đau đớn, như thể chưa bao giờ được viết ra. Nỗi nhọc nhằn, niềm hy vọng, công sức, chất liệu, đam mê, đổ vào một thứ lãng phí, bởi từ các tác phẩm này không thể học được gì từ thực tế, tinh thần của những tác phẩm này không thể thực hiện nổi.
Một „nền văn hóa hùng hậu”- lý tưởng tính, một sự ba hoa khoác lác tày đình, vô nội dung, tạo dựng từ nhu cầu phi hiện thực, với lợi ích phi hiện thực, với tiêu chuẩn hoang tưởng, không chút quan hệ gì với sự sống thực chất của con người, chưa từng có,và sẽ không bao giờ có.
Triết học hiện đại, đạo đức học, xã hội học, tâm lý học tạo dựng trong một lý tưởng tính rỗng tuếch khiến chúng không thể tác động đến đời sống của bất kỳ ai. Và nếu một ngày toàn bộ những thư viện sách này biến mất trên quả đất, không ai nhận ra sự thiếu hụt của chúng.
Thậm chí có thể đánh cuộc rằng: con người hiện đại đang sống trong tôn giáo thiên chúa, nhưng nếu thiên chúa giáo một ngày bỗng biến mất khỏi quả đất, không ai nhận ra sự thiếu vắng này, nhất là các vị linh mục.
Tóm lại: trong toàn bộ thế giới hiện đại có một cái gì đó thiếu cơ bản, giả dối, thổi phồng, bên trong nó là một sự lường gạt rỗng tuếch, luôn vin vào các lý tưởng, vào thiên chúa giáo, vào các giá trị đạo đức, nhưng không ai tin và thậm chí không ai có ý định thực hiện nó. Toàn bộ đời sống hiện đại có một cái gì đó không thực chất.
Và điều để phân biệt con người cổ với con người hiện đại chính là điều này: sự thực chất của con người.
Tinh thần về bản chất không khác; tôn giáo, siêu hình học, đạo đức, trật tự nhà nước, các lý tưởng, sở thích, các mục đích giống nhau, bởi vì những thứ này trong thời gian và ở các dân tộc đều như nhau.
Sự khác biệt là: con người cổ sống trong tinh thần, tin vào tinh thần và đấy là nội dung và số phận của họ, để thực hiện tinh thần. Sự thực hiện này là hoạt động siêu hình của đời sống; đây chính là sự canh tác mạnh mẽ, tích cực của con người vào thế giới vật chất.
Trong hoạt động thực hiện tinh thần này mang tinh thần người cha của tình yêu thương; chính vì vậy trong toàn bộ sự canh tác chứa đựng tính chất tôn giáo và siêu hình, và chính vì vậy sự hoạt động này là một sự sùng bái.
Con người hiện đại, dù biết về siêu hình, về tính chất sùng bái của hoạt động, về đặc tính tôn giáo của sự canh tác, nhưng họ không tin, họ vứt bỏ yếu tố tinh thần, và nội dung cuộc đời của họ: thay cái TÔI cá nhân vào vị trí tình thương yêu của người cha trong bản chất của hoạt động.
Tất cả những gì liên quan đến tinh thần của thời hiện đại đều mang tính chất không tưởng. Cái sẽ thực hiện trong tương lai không bao giờ hiện thực hóa, mà chỉ là không tưởng: bởi vậy thời hiện đại là Lời mang tính chất không tưởng và chủ nghĩa không tưởng là hành vi đặc thù của nó.
Bởi vậy lương tâm của toàn bộ nhân loại thời hiện đại là một lương tâm hư hỏng: nó thừa biết tất cả những gì nó nói, đòi hỏi, tuyên bố, thành lập, gắn liền với sự thực hiện. Nó thu thập lý thuyết, đề ra các mục tiêu, nói về các tiêu chuẩn, tuyên bố các giá trị, nhưng kẻ đầu tiên không nghĩ đến việc thực hiện những điều này chính là kẻ đề ra và tuyên truyền.
Tất cả những gì nhân loại thời hiện đại suy nghĩ và lên kế hoạch, như một kẻ bắt buộc chịu đựng những khó khăn thường xuyên đổ lên đầu, không hy vọng nhỏ nhất là được trả công. Tinh thần thời hiện đại, như mới đây nhất người ta nói: không hiện sinh, là một thứ phi bản chất, phi tinh thần, phi cá nhân, rỗng tuếch và không thể hiện thực hóa.
Nhân loại thời hiện đại về tổng thể đã tự nhầm lẫn bản thân với các loại lý thuyết của họ. Riêng biệt từng con người hiện đại, nhất là những kẻ mệnh danh sáng tạo ra văn hóa, các nhà đạo đức, nhà giáo, các nhà bác học, linh mục, các đại diện nhà nước đều cho rằng mình đang sống một đời sống tinh thần rất cao mà không hề nhận ra thứ tinh thần họ tuyên bố không cái gì được thực hiện.
Những tư tưởng cao siêu đẹp đẽ không hề mang tính phổ quát, và đứng về mặt cá nhân cũng không thực hiện nổi, toàn bộ là một ảo tưởng tri thức, núp dưới nó là những con người đê tiện, kiêu ngạo, huênh hoang, rỗng tuếch, kệch cỡm, và trước hết là những kẻ ngu muội.
HAMVAS BÉLA
NGUYỄN HỒNG NHUNG dịch (từ nguyên bản tiếng Hung)
Nguồn triethoc.edu
(Còn tiếp)
Những tư tưởng cao siêu đẹp đẽ không hề mang tính phổ quát, và đứng về mặt cá nhân cũng không thực hiện nổi, toàn bộ là một ảo tưởng tri thức, núp dưới nó là những con người đê tiện, kiêu ngạo, huênh hoang, rỗng tuếch, kệch cỡm, và trước hết là những kẻ ngu muội.
HAMVAS BÉLA
NGUYỄN HỒNG NHUNG dịch (từ nguyên bản tiếng Hung)
Nguồn triethoc.edu
_______________________
Bài viết này cực đoan, rất cực đoan. Đâu phải mọi tư tưởng cao siêu là đẹp đẽ, và không phải mọi tư tưởng đẹp đẽ thì phải cao siêu. Tư tưởng càng đơn giản, càng tiệm cận thực tế mới là tư tưởng vĩ đại.
Phủ nhận một dòng chảy liên tục không ngừng nghỉ của văn hóa tiếp nối từ đời này sang đời khác mới là cách nhìn ngu muội.