Văn hóa cổ và văn hóa thời hiện đại (1)

Từ một thí nghiệm vô nghĩa là gần đây người ta mong muốn gán cho văn hóa một sự quan trọng thái quá, nên chắc chắn thời nào văn hóa cũng được coi trọng.

Không cần thiết cứ phải đặt tên là văn hóa. Có thể canh tác đất, thiên nhiên, vật chất, khả năng, tài năng, tri thức con người; và chỉ canh tác được những thứ này. Không thể canh tác tinh thần, bởi tinh thần là kẻ thực hiện việc canh tác.

Văn hóa là sự canh tác thế giới vật chất một cách tích cực.

Nhưng trong thời cổ, văn hóa không nằm trong ý nghĩa như thế. Bởi vì canh tác cũng giống như các hoạt động khác, không sở hữu ý nghĩa độc lập riêng liên quan đến thế giới vật chất.

Trong thời cổ, người ta không tách thế giới vật chất ra khỏi hiện thực tinh thần, không coi là hai sự vật riêng biệt; khi canh tác thiên nhiên, sự canh tác này được đặt thành sự phụ thuộc từ hiện thực tinh thần.

Văn hóa như một lý thuyết độc lập không có ý nghĩa gì hết.

Gần đây người ta nói, văn hóa là tư tưởng hình thành độc lập với con người, là thứ sáng tạo ra trật tự sống, ra các tập quán, các hình thức, các công cụ, các đối tượng xã hội từ trên xuống một cách độc quyền như thống trị, giống như việc tạo ra nghệ thuật, pháp luật, quan điểm, thậm chí: tinh thần, và như vậy gần đây nhất người ta đã nâng văn hóa lên thành một lý thuyết điều chỉnh sự sống tự trị.

Một từ duy nhất về lý thuyết này cũng chớ nên để xổng, bởi nhầm lẫn này đưa lại một cơ hội cực kỳ hiếm hoi để diễn đạt sự khác biệt giữa canh tác thời cổ và thời kỳ lịch sử.

Không nên để lỡ cơ hội này, bởi vì sự khác biệt trong canh tác thời cổ và trong thời kỳ lịch sử có ý nghĩa quyết định đến mức, nếu một người nào đó định miêu tả sự canh tác thời cổ, mà quên xem xét thời hiện tại, thì chỉ nêu một từ thôi, người ngày nay cũng không thể hiểu nổi.

Câu chuyện bắt đầu như sau: con người thời kỳ lịch sử (sau Công nguyên-ND) cũng giống con người trước thời kỳ lịch sử đều cực kỳ nhấn mạnh đến việc nâng cao mức sống. Con người hiện đại đã thành công trong việc tạo ra cả một đội quân công cụ và các phụ tùng, nhưng các công cụ và các phụ tùng này chỉ liên quan đến tất cả những gì bên ngoài.

Trong khi việc hoàn hảo hóa bề mặt bên ngoài đạt đến mức độ cực kỳ cao, thì con người, không chỉ không thay đổi mà còn đặc biệt suy thoái đi. Ở đây không phải vấn đề: chất lượng đời sống tinh thần của con người hiện đại được trang bị bằng điện, sưởi ga, telefon, radio hay máy bay không cao hơn đời sống tinh thần của người nguyên thủy bao nhiêu. Mà vấn đề là: lý tưởng tính con người trang bị cho mình không dựa trên một nền tảng nào cả.

Những lý thuyết đạo đức lý tưởng cao vời vợi không ngăn chặn nổi con người chớ sống một đời sống gần như hoàn toàn vô giá trị đạo đức. Những yêu cầu to lớn quá cỡ chứa đựng tràn ngập trong các lý thuyết về nhà nước, nghệ thuật, trong các sở thích ưu tiên, nhưng không ai có thể thực hiện nổi, thậm chí niềm cảm hứng về các yêu cầu này cũng biến mất từ hàng thế kỷ nay.

Hiện thực tinh thần trong kích thước tổng thể của nó có mặt trong hiện tại, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, đạo đức đại diện cho nó. Nhưng khả năng hiện thực hóa những điều này từ phía con người đã hoàn toàn biến mất.

Người ta thản nhiên xây dựng những lý thuyết cao quá khổ về tôn giáo, về đạo đức, về trật tự, về sự sống đích thực. Yêu cầu của sự canh tác có, nhưng không ai phù hợp với những yêu cầu này, và sự canh tác này không thể hiện thực hóa.

Con người hiện đại sống trong một giả bộ về trình độ tinh thần cực kỳ cao; nhưng thực chất trình độ này là một ảo tưởng trắng trợn, bởi từ hệ thống tinh thần này không ai thực hiện nổi bất cứ cái gì.

Người ta gọi văn hóa là mức độ tinh thần, đạo đức, trật tự, sở thích đã qua giáo dục, là sự sống hối hả, là những yêu cầu cao, những lý tưởng con người hiện đại tự đặt ra cho mình.

Bản thân con người hiện đại không với tới được nền văn hóa này, ở sâu hơn, trong bản năng, trong tư tưởng, trong đam mê, nhu cầu tinh thần của họ thực ra phát triển một cách buông thả. Cái mà con người hiện tại đặt tên là văn hóa, không phải một sự canh tác tích cực mà là một thứ lý tưởng tính quá cỡ.

Bằng ánh sáng soi rọi từ bên trong có thể hiểu ngay được tình thế này. Con người càng hoạt động năng động bao nhiêu, càng nảy sinh nhiều tư tưởng tinh thần sáng sủa bấy nhiêu. Điều này không còn nghi ngờ gì nữa. Sự hoạt động càng có hiệu quả bao nhiêu, tinh thần- người cha của hoạt động- càng được hiện thực hóa một cách trực tiếp bấy nhiêu.

Từ điều này tự nó cho thấy sự hoạt động càng yếu ớt và vô hiệu quả bao nhiêu, trong con người càng ít tư tưởng bấy nhiêu, nói cách khác: hoạt động tinh thần càng bị thu hẹp lại bao nhiêu, hành động càng bất lực và trống rỗng bấy nhiêu.

Bởi, hoạt động không là gì khác ngoài một tinh thần đã được thực hiện, và tinh thần không là gì khác, ngoài tình yêu thương, một thứ tinh thần tích cực, thứ tinh thần của NGƯỜI CHA, không cần chỉ dẫn tự nó cũng đã có thể hiểu được.

Có loại hoạt động trong đó tinh thần được thực hiện một cách đầy đủ; có loại hoạt động trong đó tinh thần bị thu hẹp lại; và có loại hoạt động trong đó hoàn toàn vắng bóng tinh thần. Đây là loại hoạt động trong đó không có sự tích cực, sự tạo dựng, không có tình yêu thương. Đây là loại hoạt động trống rỗng, phi bản chất, phi sức mạnh, trong đó không thể thực hiện bất cứ cái gì, bởi không có gì để thực hiện.

Sự thu hẹp tinh thần xảy ra khi trong hành động, con người không thực hiện tinh thần người cha của tình yêu thương nhân gian, mà thay thế vào đấy cái TÔI của cá nhân, khiến hành động chỉ mang tính chất cá nhân; không để hành động xảy ra trong sự tích cực trong sạch ban đầu của nó, mà gắn cái TÔI vào, và như vậy, phá vỡ tình yêu thương.

Văn hóa, mà con người hiện đại đặt tên và cho là như vậy, không phải sự canh tác tích cực thế giới vật chất, mà là sự lý tưởng hóa đặt trên đời sống và không liên quan gì đến đời sống.

Hoạt động của con người hiện đại không tạo dựng, không mang tính tích cực, mà là thứ hoạt động rỗng, phi bản chất, yếu ớt, chỉ thu hẹp, đóng khung tinh thần lại, trong nhiều trường hợp còn làm biến mất tinh thần. Sự lý tưởng hóa văn hóa, đối nghịch với việc ứng dụng hóa hành động, bởi vậy hiện thực và thực hành vắng bóng trong sự lý tưởng hóa này.

Khả năng canh tác tích cực thế giới vật chất ở đây hoàn toàn không nổi lên. Tinh thần không chạm tới đời sống và đời sống cũng chẳng chạm tới tinh thần. Không có khả năng cho quá trình hiện thực hóa.

Một mặt là sự trừu tượng hóa lý tưởng, mặt khác, vắng bóng sự ứng dụng của thực hành vật chất đã bị thô thiển hóa, bởi con người hiện đại không sống trong tinh thần đồng nhất với tình yêu thương, mà chỉ sống trong cái TÔI riêng của nó. Về điều này, bàn thế là đủ.

HAMVAS BÉLA
NGUYỄN HỒNG NHUNG dịch (từ nguyên bản tiếng Hung)
Nguồn triethoc.edu

(Còn tiếp)

Bình Luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close Menu