Văn chương và hội họa Việt Nam (1)

Đất Việt –  Được sự đồng ý của PGS-TS Phạm Vĩnh Cư, chúng tôi xin đăng nguyên văn bài viết mang tiêu đề “Văn chương và hội họa Việt Nam”, đây cũng là bản tham luận mà PGS Phạm Vĩnh Cư đã trình bày tại Hội thảo quốc tế “Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế”.

Tranh Thiếu nữ của Dương Bích Liên

Tranh của hs Dương Bích Liên

Chủ đề của tham luận này hẹp hơn rất nhiều so với cái tên của nó. Quan hệ qua lại giữa văn học với các loại hình nghệ thuật khác ở nước ta là một đề tài nghiên cứu khoa học lớn và liên ngành, đòi hỏi tập trung nhiều lực lượng tinh nhuệ, nhiều học giả hiểu biết sâu rộng văn hóa – nghệ thuật nước nhà và thế giới.

Trong bài viết này chúng tôi chỉ đề cập một cách qua loa đến tương quan so sánh giữa văn chương và hội họa Việt Nam dưới hai góc độ: vị trí của chúng trong đời sống xã hội và những cống hiến của chúng cho kho tàng văn hóa nước nhà. Vì vậy xin xem những gì sẽ nói sau đây chỉ là đề cương chi tiết cho một báo cáo khoa học.

Ngoảnh nhìn lại nền văn nghệ cổ truyền của nước ta, con người Việt Nam ngày nay không thể không ngạc nhiên về vị trí rất đỗi chênh lệch giữa một bên là văn chương và một bên là các ngành nghệ thuật khác. Từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, xã hội Việt Nam xưa kia chỉ coi trọng văn chương và xem nhẹ mọi loại hình nghệ thuật khác.

Có kỹ năng sáng tác thơ văn hầu như là điều kiện nhất thiết phải có ở những người thuộc giới “sĩ phu” – tầng lớp được trọng vọng nhất trong xã hội. Từ “văn nhân” vừa có nghĩa là một trí thức nhân văn, vừa có nghĩa là người cầm bút. Những sáng tác thơ văn hay của họ được công luận tán tụng và phẩm bình rộng rãi.

Cùng với chúng tên tuổi các tác gia được lưu truyền cho hậu thế để học tập, noi gương. Còn những nghệ nhân hoạt động trong các khu vực nghệ thuật khác thì dù họ có tài đến đâu (thí dụ như kiến trúc sư Vũ Như Tô trong thế kỷ 18) vẫn cứ bị xem là thợ. Họ không được đề tên dưới những tác phẩm của mình và vì thế không được người đời sau biết đến.

Nếu chúng ta còn nhớ cái tên Vũ Như Tô và nhà văn hiện đại Nguyễn Huy Tưởng đã có thể viết một bi kịch xuất sắc về ông thì đơn thuần chỉ vì ông đã bị giết cùng với vua Lê Tương Dực trong một cuộc bạo loạn của binh sĩ và dân chúng thành Thăng Long phẫn nộ về những phí tổn quá lớn cho việc xây dựng công trình Cửu trùng đài.

Song những ai trong thế kỷ 18 đã chạm khắc nên những pho tượng Phật và La Hán ở chùa Tây Phương giờ đây rất nổi tiếng và được du khách nước ngoài ngợi khen, có lẽ mãi mãi chúng ta sẽ không bao giờ biết.

Giữa những loại hình nghệ thuật cổ truyền ở Việt Nam, hội họa chiếm vị trí khiêm tốn hơn cả, có thể nói, hầu như vắng mặt. Những gì chúng ta còn hiểu được cho đến nay là một số chân dung lý tưởng hóa thuộc thể loại tranh thờ, một số hình họa trang trí cho những sắc phong và một số cảnh sinh hoạt nông thôn – tất cả đều có giá trị nghệ thuật không cao và đều thuộc những thế kỷ gần đây.

Ảnh minh họa

Tranh  của hs Bùi Đức

Hội họa cổ Việt Nam (ngoại trừ tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống mà không thể liệt vào hội họa theo nghĩa chính xác của từ ấy) vắng mặt trong trang trí nội thất của người Việt, kể cả những gia đình khá giả từ đời này đến đời kia chơi đồ cổ, trong đó có tranh cổ.

Ngay trong cung điện của các vua nhà Nguyễn ở Huế, chúng ta cũng chỉ thấy những tranh vẽ trên gương với chất lượng rất trung bình. Vua chúa Việt Nam không khuyến khích và bảo trợ cho hội họa (trường hợp Trần Nhân Tông là một ngoại lệ rất hiếm hoi).

Vào thời buổi thịnh trị nhất của nhà nước phong kiến quân chủ Việt Nam, Lê Thánh Tông lập hội Tao đàn nhị thập bát tú, cổ vũ sáng tác thơ văn trong giới quan lại cung đình, chứ không lập “Đồ họa Hàn lâm viện” để khuyến khích và bồi dưỡng những tài năng trong hội họa.

Hệ quả tất yếu là các văn nhân đất Việt thường ưa thích và biết xướng họa thi ca nhưng chẳng mấy người nắm vững nghệ thuật hội họa (và cả thư pháp). Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ thuở còn hàn vi hay sau khi đã rũ áo từ quan thường gửi gắm tâm sự của mình vào thơ hoặc tham gia ca hát với các kỹ nữ chứ không cầm cũng chiếc bút lông ấy, dùng cũng thứ mực Tàu ấy vẽ lên cũng những tờ giấy ấy những tranh thủy mặc hay những bức thư pháp. Nước Việt Nam ta không có những Tào Thực, Vương Duy, Tô Đông Pha, Ba Tiêu (Ba Sô) – những nhà thơ lớn đồng thời là những danh họa và thư pháp gia.

Trong một nền văn hóa mà chỉ một nghệ thuật văn chương giữ địa vị độc tôn, bản thân nghệ thuật ấy không phát triển được phong phú và muôn màu muôn sắc do thiếu cọ sát, tương tác, thi sức với các nghệ thuật khác.

Trong bối cảnh như thế, không thể hình thành một nền phê bình văn nghệ, chứ chưa nói đến lý luận và triết học nghệ thuật. Điều này sẽ gây ra nhiều trở ngại rất khó khắc phục cho những ai ấp ủ kỳ vọng viết lịch sử mỹ học Việt Nam hay lịch sử văn hóa Việt Nam nói chung.

Tình hình thay đổi hẳn nếu chúng ta ngoái nhìn sang các nước “đồng văn” với chúng ta: Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Ở đấy, trước tiên là ở Trung Quốc – trung tâm của thế giới Hán hóa (cinisé), nước láng giềng liền núi liền sông đã ảnh hưởng tạo tác đến thế, đến toàn bộ nền văn hóa vật chất và tinh thần của người Việt chúng ta – hội họa cũng như thư pháp được coi trọng và khuyến khích phát triển không kém văn học. Như nhiều người biết, ở Trung Quốc, bên cạnh những nhà thơ đại tài được hậu thế tôn là “thi thánh”, có những “họa thánh” và “thư thánh”.

Thư pháp và hội họa là hai chị em ruột sinh hạ hầu như cùng một lúc, trưởng thành trong sự giúp đỡ lẫn nhau, tương tác và liên kết với nhau trong sự quan tâm, bảo trợ của nhà nước và xã hội. Nhiều hoàng đế Trung Hoa là những họa sĩ và những thư pháp gia, hoặc là những nhà sưu tập nghệ thuật trứ danh.

Họa viện được thành lập bên cạnh hoàng gia và hoạt động có quy củ từ thế kỷ 8. Không chỉ thi tứ, mà cả thư họa đã sớm trở thành những thú vui tao nhã của giới sĩ phu Trung Hoa, cả những người làm quan cũng như những người tránh xa quan trường.

Chính do sự khác biệt giữa nghệ thuật cung đình – quan phương với nghệ thuật của các sĩ phu tự do mà trong lịch sử nghệ thuật Trung Hoa đã hình thành hai dòng hội họa trường tồn: “Viện thể họa” và “Văn nhân họa”, đối lập với nhau nhưng cũng ảnh hưởng, thẩm thấu lẫn nhau, cùng với sự tiếp thu ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây trong nhiều thế kỷ bảo đảm sự phát triển năng động, giàu thành tựu đa dạng của hội họa và mỹ thuật Trung Hoa nói chung.

Với những khác biệt tất yếu nhưng khôngcơ bản, bức tranh phát triển hội họa và mỹ thuật ở Nhật Bản cũng hiện ra tương tự. Nơi đây, cũng như ở Trung Quốc có, thơ ca, hội họa, thư pháp vừa phát triển đồng hành, vừa liên kết với nhau chặt chẽ, đôi khi tạo thành những thể thống nhất không thể tách rời như ở thể loại saiga.

Còn mức độ bắt rễ của chúng vào đời sống hàng ngày, vai trò tác dụng của chúng trong việc nuôi dưỡng khiếu thẩm mỹ của con người Nhật thì được thể hiện nổi bật thí dụ bằng sự hiện diện cái tokonoma trong nội thất của mọi gia đình Nhật Bản.

Sang thời đại mới, trong cuộc gặp gỡ vĩ đại giữa văn hóa phương Đông với phương Tây, hội họa và mỹ thuật cổ truyền Trung Quốc và Nhật Bản đã ảnh hưởng tác thành thế nào đến nhiều ngành nghệ thuật Âu – Mỹ thế kỷ 19 -20, đã làm giàu đến đâu kho tàng chung của nghệ thuật thế giới – về đề tài này đã có nhiều công trình nghiên cứu đáng tin cậy được viết ở nhiều nước và bằng nhiều thứ tiếng.

Từ Trung Quốc, Nhật Bản và cả Triều Tiên chuyển sang nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam cổ truyền, các học giả phương Tây đầu thế kỷ 20 dễ có cảm tưởng là ở người Việt không có “gen” hội họa.

a

Tranh của  hs Bửu Chỉ

Hạnh phúc thay những nghi ngờ ấy đã khá mau chóng được xua tan bởi những tác phẩm hội họa được triển lãm ở Hà Nội, Paris, Tokyo, Hồng Kông… của một loạt họa sĩ trẻ, báo hiệu sự ra đời tuy muộn màng nhưng gây ấn tượng của một nghệ thuật hội họa Việt Nam đích thực.

Tất cả những họa sĩ ấy đều là sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương – một trường cao đẳng được thành lập năm 1925 và nằm trong hệ thống Đại học Đông Dương được chính quyền Pháp bắt đầu xây dựng từ đầu thế kỷ 20.

Nói đến Trường Mỹ thuật Đông Dương và vai trò của nó trong sự hình thành và phát triển của hội họa Việt Nam tức là nói đến công lao rất to lớn, đáng được ghi nhớ mãi mãi, của một họa sỹ người Pháp Victor Tardieu (1870 – 1937) cùng các cộng sự của ông – những họa sĩ Pháp khác và những nhà nghiên cứu nghệ thuật làm việc tại Trường Viễn Đông Bác Cổ (Inguimberty, De Fénis, Roger, Goloubev, Besacier…).

Chính họ với nhiệt tình và lương tâm nghề nghiệp cao đã tuyển chọn vào trường những thanh niên thực sự có năng khiếu để đào tạo thành những nghệ sĩ tạo hình chân chính, truyền đạt cho họ những kiến thức vững chắc về những nền nghệ thuật lớn của thế giới, với lịch sử lâu đời, quanh co khúc khuỷu, đầy những biến đổi và dồi dào thành tựu của chúng.

Và điều quan trọng hơn cả, chính những người ngoại quốc ấy đã khích lệ, hướng dẫn, giúp đỡ những họa sĩ trẻ Việt Nam tìm ra những con đường nhiều hứa hẹn để trong một thời gian lịch sử ngắn sáng tạo nên một nền hội họa vừa hiện đại vừa mang rõ dấu ấn dân tộc.

Trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam, giai đoạn 1930 – 1945 là buổi đơm hoa kết trái đầu tiên trong tiến trình văn hóa Việt Nam hội nhập văn hóa thế giới. Nó được đánh dấu bằng nhiều biến chuyển lớn, trong đó có hai biến chuyển kỳ diệu: sự phát triển gia tốc của văn xuôi nghệ thuật với một số đỉnh cao cho đến giờ vẫn chưa được vượt qua và sự ra đời và sớm đạt độ chín muồi của hội họa (tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh, tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí và Hoàng Tích Chù, tranh sơn dầu của Tô Ngọc Vân và Trần Văn Cẩn, nếu chỉ điểm những thành công nổi bật nhất).

Phong trào Thơ Mới ở ta trong những năm 30 được gọi là “cuộc cách mạng trong thơ ca” và hiện nay đã được nghiên cứu đến mức vắt kiệt, theo chúng tôi lại không có được ý nghĩa to lớn và trường cửu như thế.

Cái đó thể hiện ở ngay ngôn ngữ và hình thức thi ca, mà rất nhiều độc giả người Việt hôm nay, đặc biệt các nhà thơ, cảm thấy rõ ràng đó là ngôn ngữ và hình thức của một thời đại đã qua và không bao giờ trở lại (chưa nói đến thế giới cảm xúc và tâm tưởng mà dòng thơ lãng mạn ấy biểu tả).

Trong khi đó thì những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao…, ký của Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Tuân, hai tiểu thuyết Số đỏ và Sống mòn (cần thêm vào cả những kịch phẩm văn xuôi của Đoàn Phú Tứ và Nguyễn Huy Tưởng), người đọc hôm nay vẫn thấy là mới, là hiện đại, tức là chúng đạt được chất “cổ điển mới”.

Nguyên nhân của sự phát triển lệch pha này so với những người viết xuôi hay kịch nói, mà thiết nghĩ, ở sức mạnh của truyền thông, ở sức ỳ của tư duy thơ ca được nuôi dưỡng bằng sức ỳ của thị hiếu công chúng mà bản thân những người quyết tâm làm một cuộc cách mạng trong thơ thời ấy cũng chưa ý thức được đầy đủ. Đối với sáng tạo nghệ thuật, truyền thống luôn luôn vừa là bệ đỡ vừa là rào cản.

Theo cảm nhận của chúng tôi, đối với thơ Việt Nam thời mới thì nó là rào cản nhiều hơn bệ đỡ, và nếu không xuất hiện những thiên tài xuất chúng thì cần nhiều nỗ lực kiên trì và có ý thức của nhiều thế hệ nhà thơ nữa để cho nền thơ nước nhà có thể đạt được chất “cổ điển mới”. Chính sự không có truyền thống hóa ra lại là một nhân tố quan trọng hỗ trợ sự trưởng thành nhanh chóng của văn xuôi nghệ thuật và hội họa Việt Nam trong các giai đoạn đương nói đến.

Song như ta sẽ thấy, cũng sự thiếu vắng truyền thống lâu đời, vững chắc, với nhiều đỉnh cao không thể che lấp, sau này trong những bối cảnh lịch sử đã đổi khác sẽ gây cho văn chương và hội họa nước nhà không ít khó khăn.

Nhìn nhận và so sánh hồi cố văn chương và mỹ thuật Việt Nam giai đoạn 1945-1975, trước tiên cần luôn luôn nhớ rằng nền văn chương và mỹ thuật ấy tồn tại và phát triển trong điều kiện cách mạng và chiến tranh. Như mọi người đều biết, cách mạng Việt Nam vừa là cách mạng giải phóng dân tộc vừa là cách mạng xã hội, và nó được tiến hành trong điều kiện 30 năm chiến tranh rất gian nan.

Như lịch sử cho thấy, mọi cách mạng xã hội và mọi cuộc chiến tranh đều không thuận lợi cho sự phát triển liên tục, không đứt đoạn, không có những đảo lộn giá trị văn hóa. “Ở đâu đại bác rền vang, nơi ấy các nữ thần nghệ thuật câm lặng” – châm ngôn ấy của Goethe, phát ra trong những năm cuộc Đại cách mạng Pháp làm chấn động cả châu Âu – với những đính chính nhất định, xem ra có thể áp dụng cho mọi quốc gia và mọi thời đại.

Trong lịch sử văn học và nghệ thuật Pháp, giai đoạn 1789 -1815 là giai đoạn để lại những trang trắng, không phải vì trong thời kỳ ấy người Pháp không sáng tác thơ, văn xuôi, kịch, hội họa, điêu khắc và những sáng tác ấy không được cổ vũ, biểu dương, ghi công, mà vì tất cả chúng (trừ những ngoại lệ hy hữu) đều không qua được thử thách của thời gian. Văn chương, nghệ thuật Pháp chỉ bắt đầu hồi sinh từ thời Trung hưng (1915-1830).

Tình trạng văn nghệ Việt Nam trong ba thập kỷ đương nói đến không giống như thế. Sẽ còn lại dài lâu với thời gian không ít những bài thơ và đặc biệt những bài hát kháng chiến hay, những truyện ngắn và những bài ký thành công, nhưng đáng tiếc rất thưa thớt những kịch phẩm và hoàn toàn thiếu vắng những tiểu thuyết đã chứng tỏ có sức sống lâu bền.

(Còn nữa)
PGS Phạm Vĩnh Cư

Nguồn baodatviet

2 comments

  1. http://vtc.vn/13-375670/giai-tri/nsut-pham-bang-den-gio-van-nuoi-tiec-nghe-phi-cong.htm

    NSƯT Phạm Bằng: Đến giờ vẫn nuối tiếc nghề phi công
    30/04/2013 12:00 | Giải trí

    (VTC News) – NSƯT Phạm Bằng bắt đầu câu chuyện bằng cái chép miệng tiếc nuối nghề phi công, cái nghề mà theo ông là cho đến bây giờ, khi đã ở cái tuổi 82, tuổi xưa nay hiếm vẫn còn tiếc lắm.

    “Phi công ở đây không phải phi công trẻ như giới trẻ bây giờ hay tếu táo đâu, mà là nghề phi công ấy. Cả đời tôi ao ước được làm nghề lái máy bay, thế mà chỉ vì một cái răng sâu tôi đã bị loại, tôi nuối tiếc đến mức mất ăn mất ngủ hàng năm trời” – Phạm Bằng nói.
    – Nghe người ta kể nhiều về NSƯT Phạm Bằng từng ao ước mãi được làm nghề phi công khi mới rời ghế nhà trường?

    Ôi, ngày xưa tôi mê cái nghề phi công lắm. Ngay từ lúc còn đang đi học, sau khi nghe bài hát của nhạc sĩ Văn Cao viết về phi công, tôi đã rất mê, và trong đầu mình chỉ nghĩ đến việc nhất định sau này phải làm phi công chứ không làm bất cứ nghề gì khác.

    Tính như bây giờ là khi học xong cấp ba, tôi cũng đi thi tuyển thật. Tôi vượt qua hết các vòng, từ thể lực, hình thể đến thần kinh, độ nhạy cảm, thông minh lanh lợi ứng phó với tình huống…cứ chắc mẩm rằng vậy là sắp chạm tới ước mơ.

    Vậy mà chỉ vì một cái răng hàm sâu mà tôi đã bị loại, không được nhận vào. Mà ngày đó không có chuyện xin xỏ, chạy chọt và đút lót để nhận cái vé vớt đâu, bên nhà binh họ làm nghiêm lắm, tôi bị loại thẳng tay vì cái răng sâu ấy.

    Tôi tiếc đến nỗi mất ăn mất ngủ phải đến hàng năm trời, ngơ ngẩn không làm gì được. Chính lúc bí bách vì không thực hiện được ước mơ đó, tôi mới đi vào con đường nghệ thuật, như một cách giải tỏa chứ nghệ thuật không phải nghề đầu tiên tôi chọn đâu (cười).

    Đến bây giờ, hơn 80 tuổi rồi vẫn còn tiếc nuối ấy chứ, nhưng mà thôi, cũng dần quên đi rồi, thỉnh thoảng mới thấy nhớ, mà nghệ thuật cũng bù đắp cho mình nhiều rồi, với lại có lẽ ước mơ của thời trai trẻ khi mới 19, 20 tuổi nó khác, nó lạ lắm, cứ đóng chốt đóng chốt vào trong suy nghĩ rằng mình nhất định phải làm được cái mà mình ao ước.

    – Không phải sự lựa chọn đầu tiên, vậy mà cái nghề nó lại vận vào ông suốt những năm tháng sau này của cuộc đời, hình như đó cũng là cái duyên?

    Nó là cái nghiệp rồi, đi theo nó đến suốt cả cuộc đời cũng có lý của nó. Lúc bấy giờ khi đi học tôi cũng có làm nghiệp dư chơi với anh em thôi, ví dụ cuối năm tập Lưu Bình, Dương Lễ chứ cũng chưa nghĩ đến việc sẽ theo nghề này để sống.

    Sau này khi chế độ ta về thì tôi cũng thử vào đoàn văn công Hà Nội. Tôi cũng bảo vào đó thử trong 5 năm, trong 5 năm ấy, nếu mà tôi không phát triển được tôi ra làm nghề khác, vì làm nghề mà nó không ra nghề cũng khổ chứ không sướng, ngày xưa tôi gọi là cái anh chạy cờ với chuyên đóng lính đấy.

    Ở đoàn văn công khoảng 4 năm thì tôi được đóng hai vai chính, mà là những vai hóc búa đấy, trong hai vở lớn của đài Hà Nội, được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt, được các thầy khẳng định tương lai của em còn rộng mở lắm, khả năng còn phát triển hơn nữa nên tôi đã ở lại.

    Đến lúc đó tôi mới yên tâm theo nghề. Mà thực ra là cũng phải yên tâm thôi, vì nếu mình cứ đứng núi này trông núi nọ thì cũng không tiến được. Còn một khi đã yên tâm rồi thì hết mình vì nghề nghiệp.

    Ngày xưa đời sống của mình gắn chặt với nghề nghiệp, buông nghề ra là chết, mà buông trong hoàn cảnh nào cũng chết. Cái thứ hai là anh phải yêu nghề, thực sự yêu nghề thì mới làm được.

    – Gia đình không có ai theo đuổi nghệ thuật, được biết cụ thân sinh ra ông cũng từng phản đối kịch liệt cái nghề mà theo cụ là “xướng ca vô loài” ấy, vậy mà ông vẫn gắn chặt với nó?

    Lúc học cấp ba tôi không bao giờ nghĩ đến việc sau này sẽ làm nghề này cả. Những lĩnh vực liên quan đến nghệ thuật người ta không gọi là nghề, mà người ta coi là xướng ca vô loài.

    Đúng là chính bà cụ thân sinh ra tôi là người phản đối dữ dội nhất, bà muốn tôi theo nghề giáo của bố, làm một anh gõ đầu trẻ chứ nhất định không phải cái nghề xướng ca vô loài kia.

    Nhưng biết làm sao được, tôi đến với nghệ thuật sau khi trượt giấc mơ làm phi công, và theo nó cho đến tận bây giờ.

    NSƯT Phạm Bằng trước giờ lên sân khấu
    – Làm nghệ thuật những năm tháng ấy, chắc hẳn không tránh khỏi những lúc chật vật sống dở chết dở với nghề, có khi nào ông nghĩ đến chuyện bỏ nghề làm theo lời cụ thân sinh mong muốn?

    Có nhiều lúc chật vật với nghề lắm, những năm tháng cả đất nước đói nghèo khó khăn thì nghề nào cũng khó sống, nghệ thuật lại càng khó hơn nữa vì nó là đời sống tinh thần chứ không trực tiếp làm ra của cải vật chất.
    Rồi với tính tôi, nhiều khi lãnh đạo phân biệt đối xử cũng không chịu nổi nên đã chật vật lại càng thêm chật vật.

    Nhưng tâm huyết của tôi lúc bây giờ, giống như hầu hết thanh niên cùng thời, sống và phấn đấu vì lý tưởng, vì nghĩ đến đỉnh cao là Bác Hồ, nên cứ gắn chặt với nghề, cứ cống hiến, đôi lúc cũng chẳng hiểu vì sao mình lại đi qua được những năm tháng ấy mà không tính tới chuyện bỏ nghề, làm một anh giáo gõ đầu trẻ.

    Tôi vẫn hay đùa, từ bỏ tất cả để dấn thân vào nghệ thuật, nếu như sau cả cuộc đời làm nghề, vẫn chưa có gì thì cũng hơi buồn, thì có lẽ vẫn luyến tiếc cái phi công hơn (cười).

    Tôi còn nhớ mãi kỉ niệm trong cuộc đời làm nghề của mình, đó là chuyến đi Nga – người anh cả của chế độ Xã hội chủ nghĩa vào năm 1990.

    Năm 1991 tôi đủ tuổi về hưu, nhưng lúc bấy giờ Trọng Khôi lên làm giám đốc có nói: giờ em lên mà các anh chị về thì nhà hát còn gì nữa. Em sẽ đề nghị với bộ giữ anh chị lại với em, nếu được chục năm thì tốt, không thì cố năm, bảy năm cũng được. Thế là tôi ở lại thêm một thời gian.

    Đó cũng là khoảng thời gian Mỹ xóa lệnh cấm vận, và mình bắt đầu có những quan hệ với Mỹ. Năm 1998 lần đầu tiên chúng ta có giao lưu văn hóa với Mỹ, cũng lần đầu vở “Hồn Trương Ba ra hàng thịt” mang sang đó diễn. Và tôi vinh dự được góp mặt trong chuyến đi kéo dài 3 tháng ấy.

    Đó là hai chuyến đi để lại những kỉ niệm không bao giờ quên trong tôi, mà sau này, dù có tiền của, thời gian cũng không thể có chuyến đi như thế lần nữa.

    An My (thực hiện)

  2. Thằng Tàu ở phương bắc lúc nào cũng rình rập để xâm chiếm nước ta. Các sĩ phu suốt đời phải lo học binh pháp, mài gươm, viết Bình Ngô Đại cáo thì còn đâu tâm trí mà vẽ vời, viết thi pháp.
    Đám quan lại Tàu phè phỡn nên mới có thì giờ vui thú hội họa, vậy mà nó cũng bị Nguyên Mông và Mãn Thanh đè đầu cưỡi cổ đến vài thế kỷ. Giờ này còn hung hăng thì có khi chết không kịp trối !

Bình Luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close Menu