Thơ Tomas Tranströmer

http://www.left-hand-brofeldt.dk/Images/Transtroemer.jpg
Tomas Transtromer nhà thơ đoạt giải Nôben văn chương năm 2011

Tomas Transtromer sinh ngày 15 tháng 4 năm 1931 tại Stockholm (Thụy Điển) và được mẹ nuôi dưỡng do cha mẹ ly hôn, mẹ ông là một giáo viên . Ông đã học trung học của ông tại trường Latin Södra ở Stockholm, nơi ông bắt đầu làm thơ. Ngoài việc lựa chọn tạp chí ấn phẩm, bộ sưu tập đầu tiên của bài thơ, 17dikter được xuất bản vào năm 1954. Ông tiếp tục học tại Đại học Stockholm, tốt nghiệp ngành tâm lý học vào năm 1956 với nghiên cứu bổ sung lịch sử, tôn giáo, và văn học. Trong các năm 1960 và 1966, Tranströmer chia thời gian của mình giữa làm việc như một nhà tâm lý học tại trung tâm Roxtuna cho người chưa thành niên phạm tội và viết thơ. Lúc lên 13 tuổi, Tomas Tranströmer đã làm quen với việc sáng tác thơ và đến năm 23 tuổi, Tomas Tranströmer xuất bản tuyển tập thơ đầu tiên có tựa đề Những vần thơ tuổi 17.

Năm 1990, Tomas Tranströmer trải qua cơn đột quỵ nặng nhưng sau đó vẫn không từ bỏ niềm đam mê sáng tác. Ông từng nhận được nhiều giải thưởng uy tín nhất của làng văn chương thế giới như: Giải Bonnier (của Estonia) lĩnh vực thơ, Giải quốc tế Neustadt (Mỹ) dành cho văn học, Petrarca-Preis (Đức), Vòng hoa vàng tại Đại hội thi ca quốc tế Struga Poetry Evenings (Romania), Swedish Award trong Diễn đàn Thi ca Quốc tế, giải Thành tựu trọn đời của giải Thơ ca Griffin (Canada)…

Ngoài sáng tác văn chương, trước khi bị đột quỵ, Tomas Tranströmer còn được biết đến là nhà tâm lý học làm việc trong những trại giam dành cho trẻ vị thành niên và là bác sĩ tâm lý của những phạm nhân tàn tật, nghiện ma túy. Những đóng góp của ông dành cho xã hội là điều vô giá, xuất phát từ chính tâm hồn nhạy cảm và lòng trắc ẩn của tác giả tài năng này.

 Ông đã được trao giải Nobel Văn học năm 2011 vì “Tomas Tranströmer được vinh danh vì lối kể chuyện súc tích của ông đã mang chúng ta đến gần hơn với những suy nghĩ thực tại” 

VTH xin giới thiệu chùm thơ của ông:

Ở NƠI TẬN CÙNG CỦA CHIỀU SÂU

Những ngọn núi đại bàng

Sau bức tường kính kia –
Là những con bò sát
Lạ lùng, nằm im.

Người phụ nữ phơi áo
Trong lặng im.
Một cái chết thanh thản.

Ở nơi tận cùng của chiều sâu
Hồn tôi bay –
Nhẹ nhàng như sao chổi.

TRẠI GIAM

(Chín bài thơ haiku làm ở Henbiu,

Trại giam các tội phạm vị thành niên)

1. Thật rối bời
Trong lúc chơi đá bóng:
Quả bóng bỗng vụt bay qua tường.

2. Người ta làm rùm beng
Cho thời gian hoảng sợ
Để nó chạy đi nhanh hơn.

3. Cuộc đời nhầm lẫn
Vẻ đẹp nơi đây –
Là những bức tranh trong các vết xăm mình.

4. Sự tất bật của công việc
Cùng nóc nhọn tháp canh
Làm cho rừng ngạc nhiên vô kể.

5. Tấm lưới sắt đã được kéo lên
Chúng tôi vào trong sân
Một thời điểm khác của năm.

6. Ngọn đèn soi bức tường
Những con ruồi nhìn thấy vết bẩn
Của ánh sáng ảo huyền.

7. Đêm. Chiếc xe vận tải đi qua
Giấc ngủ người tù
Run rẩy.

8. Uống sữa xong
Chàng ta thiu thiu ngủ
Buồng giam – Bà mẹ sắt đá!

9. Chàng trốn trại bị bắt ngay trở về
Dốc ngược hết cả túi quần, túi áo
Chứa đầy lá xanh.

TRÍCH CHÙM THƠ “ĐIỀU BÍ ẨN NHIỆM MÀU”

1. Những mảnh vườn treo
Trong tu viện Tibet –
Một bãi chiến trường.

2. Con hươu nhìn mặt trời…
Đàn ruồi xanh lập loè thoáng hiện
Đơm bóng đen vào đất.

3. Bức tường tuyệt vọng…
Những con chim bồ câu ngây thơ
Bay đến rồi bay đi.

4. Mặt trời mùa đông…
Bóng tôi lồng lộng bơi
Rồi mờ đi.

5. Cái chết nghiêng xuống bờ vai tôi
Tôi chỉ là một quân cờ
Hắn thông tỏ mọi đường đi, nước buớc.

6. Mặt trời ghé qua
Những con tàu mõm chó
Nhìn tôi.

7. Ở những nơi lồi lên
Của đường nứt và lối mòn
Là giấc ngủ và núi băng trôi.

8. Trời nắng gắt
Đàn dê leo lên đồi
Xuỵt xuỳ nhóm lửa.

9. Những chiếc lá vô giá lìa cành
Như là bao tiếng réo
Của Biển chết.

10. Họ viết hoài, viết mãi
Chất keo chảy thành dòng
Qua cả bến Xơtíc.

11. Một khu rừng rậm
Ngôi nhà tuyềnh toàng của mặt trời
Những bức tường toả sáng.

12. Buông lỏng dây cương mặt trời
Theo lối mòn lần bước –
Có ai gọi mình chăng?

13. Mặt trời trôi…
Những lá buồm đen sẫm
Mọc lên từ ký ức.

14. Nắp quan tài bị nứt
Tử thi liền nhìn tôi –
Ồ đây là gương mặt!

15. Cái lặng im của màu tro tàn…
Người khổng lồ xanh đi qua,
Ngọn gió lạnh thổi từ biển cả…

Triệu Lam Châu dịch

theo bản dịch tiếng Nga của Anatôly Kuđriavisky.

Nguồn: nguoibanduong.net

KỂ TỪ THÁNG BA 79

Mỏi mệt vì hết thảy những kẻ tới với những chữ,

Những chữ chứ không phải một ngôn ngữ

Tôi đã ra một hòn đảo tuyết phủ.

Nơi hoang dã không có chữ.

Những trang trắng mở ra khắp phía!

Tôi bắt gặp dấu vết những móng chân hoãng trên tuyết.

Ngôn ngữ chứ không phải những chữ.

(trích trong tập Phố chợ hoang dã, 1983)

THÁNG TƯ VÀ IM LẶNG

Mùa xuân thật vắng vẻ.

Một cái hố bằng nhung tối lại

bò sát bên tôi

không tự ngắm mình.

Cái duy nhất lấp lánh

là những bông hoa vàng vàng này.

Chiếc bóng của tôi mang tôi đi

như một cây vĩ cầm

trong cái hộp đen.

Tất cả những gì tôi muốn nói

loáng lên ngoài tầm

như đồ bạc

nơi người cho vay nặng lãi.

Diễm Châu dịch

nguồn: vietnamnet.vn
Theo Docamvan blog 

Bình Luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close Menu