Sự chuyển hóa của báo chí đương thời – Đoàn Khương Duy

>> Kĩ thuật số đang khiến chúng ta trở nên thông minh hơn

Báo in suy tàn, báo điện tử phát triển mạnh

online1

“Trong vòng năm năm, báo in chắc chắn vẫn tồn tại. Trong mười năm, nếu chúng ta làm mọi chuyện đúng đắn, nó có thể vẫn còn ở đấy, tôi không chắc là nó sẽ tiếp tục tồn tại theo cách như chúng ta biết hiện nay. Nó vẫn sẽ ở đấy nếu chúng ta tranh đấu để nó được ở đấy.”

Đây là quan điểm của Juan Luis Cebrián, CEO của tập đoàn truyền thông Prisa, trong cuộc gặp gỡ với ban biên tập tờ nhật báo lớn nhất Tây-ban-nha El País hồi đầu năm 2009. El País chỉ là một trong số nhiều tờ báo lớn bị thất thu nặng nề từ việc suy thoái báo in, và họ buộc phải sa thải 129 nhân viên hồi cuối năm 2012 để giảm bớt gánh nặng tài chính [1]. Với sự phát triển bùng nổ của Internet và các phương tiện kĩ thuật số, thì lượng phát hành báo in và lợi tức kèm theo đang ngày càng xuống dốc. Ngoại trừ ở một số quốc gia Á châu (như Nhật, Trung-quốc, Ấn-độ) và những quốc gia Mĩ Latin, Trung Đông, lượng phát hành báo in vẫn trên đà tăng lên, thì những thị trường báo chí truyền thống như Bắc Mĩ và Tây Âu đang phải chịu cảnh suy thoái nặng nề ở lĩnh vực báo giấy.

Kết quả tất yếu của việc suy giảm lượng phát hành báo in là việc những tờ báo lớn buộc phải cắt giảm ngân sách, hoặc phải khai tử mảng báo giấy của mình để chuyển sang đầu tư cho báo điện tử. Thậm chí còn có một website ghi nhận sự thoái trào này ( http://newspaperdeathwatch.com)

Tầm quan trọng của báo in bắt đầu có dấu hiệu suy giảm ngay từ thập niên 1950, khi truyền hình xuất hiện, và sự bùng nổ của Internet đã làm tăng đáng kể những lựa chọn dành cho độc giả trong việc tiếp cận tin tức. Trong khi báo giấy chỉ cung cấp cho độc giả một hình thức tĩnh tại cố định, thì Internet mang đến nguồn thông tin nhanh hơn, linh hoạt hơn, với nhiều hình thức phong phú hơn: từ cách trình bày truyền thống cho đến việc chèn vào những đoạn clip ngắn, những đoạn âm thanh, và có thể liên kết từ trang này đến trang khác. Internet đã tiến thêm một bước xa hơn so với truyền hình, làm nguồn thu từ báo giấy sụt giảm nghiêm trọng.

Ông trùm truyền thông Rupert Murdoch có lần mô tả những nguồn lợi quảng cáo có được từ những tờ báo in của ông là “những con sông đầy ắp vàng”, nhưng rồi sau đó ông lại nói, “đôi khi sông cũng cạn”. [2] Warren Buffet cũng từng viết, “Đơn giản mà nói, nếu truyền hình cáp và vệ tinh, cũng như Internet, mà xuất hiện trước, thì báo giấy như chúng ta biết hiện nay hẳn sẽ không bao giờ tồn tại.” [3]

Sự phát triển công nghệ

Việc sử dụng chức năng tìm kiếm trên Internet, thông qua những công cụ tìm kiếm lớn như Google, là một yếu tố quan trọng làm thay đổi thói quen của độc giả. Nếu như trước đây, người ta tìm đọc theo tên tuổi của tờ báo, thì bây giờ họ tìm đọc thông tin qua những bài báo phù hợp với nhu cầu của mình. Ngoài ra, độc giả càng lúc càng để ý đến những cây bút cụ thể, và xu hướng tìm đọc bài viết của những cây bút đặc biệt nào đó cũng là một xu hướng đang ngày càng phổ biến. Theo báo cáo năm 2009 của Editor & Publisher về một nghiên cứu từ tổ chức Project for Excellence in Journalism, “Sức mạnh [báo chí] đang chuyển dời từ những tờ báo sang những nhà báo cá nhân đi kèm với việc ngày càng nhiều người tìm kiếm theo những cái tên [của những nhà báo đó] thông qua những bộ máy tìm kiếm, e-mail, blog và mạng xã hội.” [4]

Một yếu tố quan trọng khác thúc đẩy sự thay đổi thói quen của độc giả là việc xuất hiện hàng loạt các thiết bị số cầm tay trong thời gian gần đây: smartphone, máy tính bảng, máy đọc sách, v.v.. Giờ đây người đọc có thể tiếp cận thế giới thông tin trên Internet vào bất kì lúc nào và bất kì ở đâu. Sự phát triển của trào lưu blog cá nhân và các mạng xã hội giúp thông tin được truyền đi nhanh hơn bao giờ hết, thế là báo giấy dần dần không còn là nguồn lấy thông tin được ưa chuộng. Trường hợp điển hình nhất là ở Mĩ, vào năm 2013, theo khảo sát từ Pew Research Center, Internet trở thành nguồn lấy tin tức nhiều nhất đối với những người dùng ở độ tuổi dưới 50, nhiều hơn các phương tiện khác như truyền hình, đài phát thanh và báo in. [5]

laptop

Báo điện tử: Sự chuyển hoá triệt để

Khi báo giấy chuyển thành phiên bản báo điện tử, thì đây rõ ràng không đơn thuần là việc nâng cấp hay chuyển đổi công nghệ thông thường, mà là một sự chuyển hoá triệt để. Tại sao đó lại là một chuyển hoá triệt để? Katharine Viner, phó tổng biên tập tờ Guardian, trong bài nói chuyện vào tháng 10/2013 tại trường Đại học Melbourne, đã đưa ra một số nhận định để hậu thuẫn cho quan điểm như vậy. Cô mở đầu bài nói chuyện với ý rằng “công nghệ số là cả một thay đổi lớn lao về mặt ý niệm, một thay đổi về mặt xã hội học, một dạng bom chùm bùng nổ làm tách bạch giữa con người chúng ta và cách thế giới này được sắp xếp ra sao, cách chúng ta thấy bản thân mình, cách chúng ta sống, Đó là một sự thay đổi mà chúng ta đang ở ngay trong đó, quá mật thiết đến mức đôi khi thật khó nhìn ra. Nhưng nó là điều sâu sắc vô cùng và nó đang xảy ra theo một tốc độ gần như không tin nổi.” [6]

Thông tin chuyển từ dạng cố định sang linh động

Như ta có thể thấy, cách thức thể hiện của báo điện tử hoàn toàn khác báo giấy: báo giấy là một bản hoàn chỉnh, cố định theo khuôn khổ nhất định, trong khi báo điện tử như một thứ gì đó linh hoạt, mà gần như có vô vàn những khả năng tổ chức thông tin.

Nhiều người cho rằng hình thức chuyển từ cố định sang linh động như vậy thực chất là sự quay trở về với hình thức truyền đạt thông tin qua cửa miệng như những thời xa xưa. Theo lí thuyết của Thomas Pettitt, giáo sư tại trường University of Southern Denmark, thì cả một thời kì sau khi Gutenberg sáng chế ra kĩ thuật in ấn – tức khoảng thời gian 500 năm mà văn bản in thống trị cách truyền đạt thông tin, từ thế kỉ 15 đến thế kỉ 20 – chỉ là một sự tạm dừng. Đó chỉ là quãng thời gian chen vào giữa dòng chảy giao tiếp thông thường của nhân loại. Giờ đây chúng ta đang quay trở lại với lối giao tiếp truyền miệng như trước thời Gutenberg vậy.

Quả thực ý tưởng này có lẽ không phổ biến lắm, nhưng nếu ta nhìn vào cách thức hoạt động của những mạng xã hội hiện nay như Twitter hay Facebook, ta dễ thấy chúng vận hành như cách thế giới này từng làm trước khi có báo chí: thông tin đến từ những ai ta bắt gặp được, nghe ngóng được, bất kể đúng sai ra sao.

Vai trò của độc giả

Một khi thông tin trở nên lưu động và được nhiều người tiếp cận, điều đó dẫn đến sự thay đổi trong mối quan hệ giữa người viết với độc giả. Theo Viner, khi một người đăng bài mình lên web, thì việc làm đó tạo ra một biến đổi nền tảng giữa người viết và người đọc, làm thay đổi cách người viết nghĩ về người đọc, và cách nhận thức của người viết về vai trò của họ trong xã hội, về địa vị của họ. Khi đó, nhà báo không còn là một người biết-tuốt, không còn là người chủ động hoàn toàn, và độc giả cũng không còn ở vị thế bị động như bên báo in nữa. Độc giả lúc này hoàn toàn có thể phản hồi ngay tức thời, và có thể đóng góp vào nội dung thông tin một cách bình đẳng.

Tính minh bạch

Do vị thế độc giả của báo điện tử không còn bị động nữa, và họ thường là biết nhiều điều hơn, nên theo Viner các tờ báo không nên tìm cách lấp liếm những sai lầm của mình. Trong thế giới tràn ngập thông tin như thế này, người đọc còn muốn biết làm thế nào mà tờ báo đó có được thông tin như thế, và còn muốn xem cách tờ báo đó giải trình ra sao khi mắc phải sai lầm nào đấy. Sự minh bạch vốn cũng là điều cần có ở báo giấy, nhưng đối với báo điện tử, với khả năng lan truyền thông tin cực nhanh, thì việc thể hiện sự minh bạch càng phải rốt ráo hơn nữa.

Truyền thông xã hội và báo điện tử

Từ năm 2005, thế hệ Web 2.0 ra đời như một kiến trúc tạo điều kiện cho người dùng tham gia vào việc sản xuất, hình thành, và phân bổ thông tin, thay vì thụ động tiếp nhận nội dung do người khác tạo ra. Trong những năm gần đây, các phương tiện truyền thông xã hội như Youtube, Facebook, Twitter phát triển ngày càng mạnh, và chúng nhanh chóng trở thành nơi quen thuộc để người ta thu thập tin tức. Trong những không gian số đó, mối tương tác xã hội ngày càng gắn chặt với những phương tiện truyền thông đó đến mức nó định hình nên cách người ta trải nghiệm trên Internet. Chỉ trong vài năm gần đây, mạng xã hội đã trở thành cái mà Pew Research mô tả là một “hiện tượng toàn cầu”.

Chính những phương tiện truyền thông xã hội như thế đang biến đổi cách thức báo chí và người đọc tìm đến tin tức. Những tập đoàn truyền thông khắp thế giới đều nắm lấy mạng xã hội như một cách phân bổ tin tức và kết nối với độc giả. Rõ ràng mạng xã hội đã có tác động không nhỏ đối với giới báo chí, và cũng làm dấy lên một số vấn đề liên quan đến cách thực hành báo chí.

Thu thập tin tức

Mạng xã hội đã làm bùng nổ cách người ta cùng tham gia vào tiến trình xử lí tin tức, từ những hình ảnh được chia sẻ trên Flickr cho đến những dòng bình luận trên Twitter hay trên Facebook. Ở môi trường như thế, người đọc không còn làm việc đọc tin tức đơn thuần nữa mà còn tham gia vào việc truyền tin. Ngoài ra, truyền thông xã hội còn củng cố thêm giá trị của người đọc đối với truyền thông, không chỉ là nguồn cung cấp tin tức mà còn đóng vai trò cảm biến phản ứng với các tin tức.

Một trong những lí do tại sao truyền thông xã hội lại trở thành một phần quan trọng của việc thu thập tin tức chính vì nó là nơi thu hút tin tức rất nhanh, đặc biệt sau mỗi biến cố quan trọng nào đó như trận động đất tàn phá Haiti vào đầu năm 2010. Những thông điệp trên Twitter, những ghi nhận từ các chứng nhân trên Facebook, những hình ảnh trên Flickr, và những đoạn phim ngắn trên Youtube quay bằng điện thoại chính là những thông tin hữu ích đáp ứng được nhu cầu của giới báo chí trước khi các tờ báo lớn cử được người tới hiện trường.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng những tờ báo lớn thật sự rất coi trọng những đóng góp của độc giả ở những tình huống như thế. Tuy nhiên, khi các tờ báo cử những kí giả chuyên nghiệp tới nơi, thì họ gần như không còn trông cậy vào độc giả nữa. Chẳng hạn, trong vụ đưa tin động đất ở Haiti, trang CNN sau khi đưa người được đến hiện trường đã giảm cực kì đáng kể nguồn tin ở mạng xã hội: từ 65% trước khi đưa người đến xuống còn 4% sau đó.

Ngoài việc tác động đến thông tin truyền đi trong những sự kiện quan trọng, thì mạng xã hội còn ảnh hưởng lên tốc độ truyền tin. Tốc độ luôn là một yếu tố nổi bật nhất trong việc sản xuất tin tức của báo chí thời đại số này. Tốc độ truyền tin tăng lên phần lớn nhờ vào sự thay đổi công nghệ do tính tức thời của các mạng xã hội mang lại. Nhà báo Nicola Bruno đã dùng cụm từ “hiệu ứng Twitter” để mô tả hiện tượng người dùng thông qua Twitter để truyền tải tin tức một cách nhanh chóng. “Hiệu ứng Twitter cho phép bạn đưa tin trực tiếp mà không cần phóng viên ở hiện trường, chỉ bằng cách đi thu thập tin tức từ những nội dung có sẵn trên mạng do người dùng tạo ra.” [7]

Tường thuật tin tức

Bản thân những tờ báo lớn cũng tận dụng phương tiện truyền thông xã hội nhằm mở rộng và cải thiện cách họ tường thuật tin tức, đặc biệt đối với những sự kiện diễn ra nhanh và phức tạp vốn diễn ra trong một quãng thời gian tương đối dài và xuyên suốt một khu vực rộng lớn.

Cả Twitter lẫn Facebook đều cung cấp cho báo chí cái nền tảng chắc chắn để đưa ra những đoạn văn bản ngắn, những hình ảnh, những đoạn phim đến với lượng độc giả đông đảo trong khi câu chuyện đang tiếp diễn. Thay vì trau chuốt lại thông tin để tạo thành một câu chuyện rồi công bố sau đó, thì giờ đây họ đưa thông tin theo những mảnh tin rời rạc theo thời gian thực, kết hợp những quan sát, những cảm giác, và cả những nhận định đằng sau tin đó.

Khi thu thập tin tức và tường thuật lại, các nhà báo lúc này đảm nhận vai trò như một giám tuyển, với nhiệm vụ chính là tìm tòi, xem xét, chọn lựa những thông tin thích hợp trong số vô vàn những thông tin trên mạng xã hội, và sắp xếp chúng lại trong ngữ cảnh thích hợp. Đây có thể là một hình mẫu đáng lưu tâm trong việc xử lí tin tức ở mạng xã hội.

online2

Vươn tới lượng độc giả đông đảo

Các tổ chức truyền thông, các tờ báo còn dùng đến mạng xã hội như một công cụ giúp họ vươn đến nhiều độc giả. Cách làm thông thường nhất hiện nay mà họ làm chính là quảng bá nội dung và thu hút lượng truy cập, bằng cách dẫn đường liên kết từ trang web của họ sang mạng xã hội. Trong một nghiên cứu công bố năm 2011 thực hiện ở 9 quốc gia (Argentina, Colombia, Mexico, Peru, Bồ-đào-nha, Tây-ban-nha và Venezuela) , García de Torres và các cộng sự đã phát hiện 50% số dòng Twitter và 68% lượng bài đăng ở Facebook nằm trong hạng mục này, tức là liên kết sang chính trang web của các tờ báo. [8] Ngoài ra, trong một báo cáo năm 2011, Marcus Messner, Maureen Linke và Asriel Esford cũng đi đến kết luận tương tự khi phân tích những tài khoản Twitter của những tờ báo và tập đoàn truyền hình hàng đầu của Mĩ. [9]

Theo nghiên cứu của Pew Internet năm 2010 thì 75% người đọc tin ở Mĩ lấy tin từ e-mail hoặc từ những bài đăng trên các mạng xã hội. [10] Hơn nữa, nghiên cứu đó còn phát hiện hơn phẩn nửa số người dùng mạng xã hội bảo rằng nó lấy tin tức từ gia đình, bạn bè, và người quen mà họ kết bạn hoặc theo dõi trên những mạng xã hội như Facebook.

Việc mang tin tức đến người đọc thông qua mạng xã hội hiện nay đang được coi là yếu tố then chốt giúp đẩy mạnh lưu lượng người truy cập các trang web. Về mặt tiềm năng thì điều đó được xem là đối thủ cạnh tranh với việc truy cập trực tiếp đến web hoặc truy cập thông qua những bộ máy tìm kiếm như Google. Cũng theo một nghiên cứu của Pew Research vào năm 2011, phân tích về lưu lượng truy cập của 25 trong số những trang web tin tức hàng đầu của Mĩ, họ phát hiện Google vẫn là điểm trung gian truy cập chính, chiếm trung bình 30% lưu lượng truy cập của các trang này. [11] Trong khi đó, mạng xã hội đang trở thành nơi thu hút truy cập rất mạnh mẽ, đặc biệt là Facebook. Mạng xã hội phổ biến nhất thế giới này hiện đang là nguồn truy cập nhiều thứ nhì hoặc thứ ba trong số 5 trang tin tức hàng đầu của Mĩ.

Tuy nhiên, cũng phải thấy là những người đọc tin tức đang có xu hướng lấy nguồn tin được giới thiệu từ người thân quen hơn là từ chính các tờ báo hoặc từ các nhà báo. Chính việc người dùng chia sẻ thông tin cho nhau theo quan điểm và sở thích riêng của mình này là dấu hiệu rõ ràng cho thấy chức năng kiểm soát nguồn thông tin của giới truyền thông đang yếu dần, và nó phá vỡ cái uy quyền của những nhà báo như những người chuyên nghiệp có thể quyết định công chúng cần biết điều gì và khi nào cần biết đến điều đó.

Những luồng thông tin được cá nhân hoá như thế làm nảy sinh một số bận tâm về tình trạng đồng chất (homophily) trên mạng xã hội. Tình trạng đồng chất là việc người ta thường có xu hướng kết nối với những ai có cùng những niềm tin cốt lõi thay vì kết nối với những người có quan điểm trái ngược. Tuy nhiên, trên những nền tảng mạng xã hội như Facebook hay Twitter thì người ta vẫn chưa rõ nó xảy ra ở chừng mực nào. Purcell và cộng sự trong một nghiên cứu vào năm 2010 cho Pew Reseach đã quan sát thấy rằng những người nào có nguồn tin tức phong phú sẽ dễ có khả năng tuỳ chỉnh cách mình tiếp nhận tin tức hơn so với người khác. [10]

Việc xác thực thông tin

Việc các phương tiện truyền thông xã hội trỗi dậy như một nguồn cung cấp tin tức, và tốc độ lan toả tin tức ấy ở mạng xã hội, còn là một thách thức đối với công tác xác thực của giới báo chí. Xác thực thông tin là điều cốt lõi của báo chí để họ có thể phân tích thực tiễn một cách khách quan, qua đó khẳng định được thẩm quyền và địa vị của mình. Đưa tin nhanh nhất hoặc đưa tin chuẩn xác nhất đang là một vấn đề lớn mà các tờ báo đang gặp phải.

Tìm cách vượt qua tình trạng căng thẳng giữa chuyện nhanh nhất và chuyện đúng nhất như thế không phải là vấn đề mới. Từ lâu giới báo chí đã chú ý đến điều này, nhưng chính mạng xã hội đã làm tăng thêm tình trạng căng thẳng đó khi mà việc phổ biến thông tin ở đây được mở rộng lên rất nhiều. Khi ấy những thông tin được truyền đi như những mảnh dữ liệu tách khỏi bối cảnh của nó, và dễ biến thành những nguồn tin sai lệch do người chia sẻ không quan tâm đến xuất xứ nguồn tin hoặc không kiểm chứng lại nguồn tin đó.

Có một số cách đưa tin mới đang hình thành khi đưa tin trực tiếp các sự kiện đang diễn ra, mang lại cả những nội dung chưa được xác thực từ mạng xã hội lẫn những báo cáo chuyên nghiệp được chứng thực của các kí giả. Tuy nhiên, theo những bình luận tại hội thảo về mạng xã hội do BBC tổ chức ở Luân-đôn vào tháng 5/2011, thì có “một quan điểm trong giới truyền thông chính thống cho rằng người xem kì vọng rất thấp vào sự chính xác và tính xác thực từ những tài khoản mạng xã hội của các kí giả hoặc của các tờ báo, thấp hơn so với các chương trình TV hoặc báo giấy.” [12]

addiction

Sự chuyển hoá của báo chí đương thời

Từ những năm 2000, việc những tờ báo cho các cây bút viết blog trên trang web của họ đã làm dấy lên mối căng thẳng giữa ý kiến khách quan và chủ quan trong việc truyền đạt thông tin. Sau này, sự có mặt có Facebook và Twitter đã làm tranh cãi đó càng thêm mạnh mẽ.

Mạng xã hội là nơi thu thập thông tin rất tốt cũng như là nơi giúp các tờ báo vươn đến nhiều độc giả, nhưng bên cạnh đó nó còn mang lại những thách thức và nhiều nguy cơ khác. Để cảnh giác chống lại những hành vi có thể làm tổn hại đến danh tiếng của mình, nhiều tờ báo đã đề ra các chính sách về mạng xã hội dành cho nhân viên của mình, trong đó có việc bày tỏ ý kiến cá nhân. Chẳng hạn, tờ Washington Post khuyên nhân viên của mình “không nên làm điều gì khiến người khác phải đặt vấn đề về tính trung lập trong việc đánh giá tin tức của chúng ta”.

Tuy nhiên, những kết nối hữu hình vốn có trên mạng xã hội đã khiến các kí giả và các cây bút lâm vào tình trạng khó xử. Những người mà họ kết bạn hoặc theo dõi, hoặc ngay cả những trang Facebook mà họ bấm like, tất cả đều được xem là dấu chỉ của sự thiên lệch nào đó. Chẳng hạn, Reuters cảnh báo rằng “một tay phê bình quyết tâm có thể nhanh chóng tạo dựng nên một bức tranh mô tả các sở thích của bạn bằng cách phân tích những đường liên kết bạn chia sẻ, những người bạn theo dõi, những người mà bạn kết bạn, và vô số các dấu hiệu khác”.

Khía cạnh cá nhân của mạng xã hội cũng làm dấy lên những vấn đề liên quan đến danh tính của các kí giả. Khi tham gia cộng đồng mạng xã hội nào đó, người dùng thường muốn chia sẻ những khía cạnh cá nhân trong cuộc sống bản thân. Mặc dù các kí giả và các cây bút gần như dùng mạng xã hội chỉ để tường thuật hoặc chia sẻ tin tức, nhưng họ cũng đưa ra những câu hỏi, cũng nói về công việc của chính mình, và cũng đưa ra những nhận định về cuộc sống thường nhật nữa.

Những tờ báo và kí giả của họ đang trong tiến trình dàn xếp sao cho ổn thoả cái lằn ranh mập mờ giữa cá nhân và công việc trên các phương tiện truyền thông xã hội, để cùng nhau thoả thuận nên nói cái gì, nói cách nào, và khi nào nói ra. Trong một nghiên cứu năm 2011 phân tích 27 tờ báo của vùng bán đảo Iberia và khu vực Nam Mĩ, García de Torres và các cộng sự đã phát hiện rằng không có cách tiếp cận nhất quán nào nhằm cân bằng hai trạng thái trên. Một số cơ quan, như Reuters, khuyên nhân viên tạo những hồ sơ khác nhau để dành cho công việc và dành cho cuộc sống cá nhân, trong khi những trang khác, như Bloomberg, lại thừa nhận rằng tính phổ biến của mạng xã hội khiến ta không thể vạch ra ranh giới rõ ràng giữa công việc và cá nhân. Ở bất kì trường hợp nào, cho dù cây bút đó cố gắng duy trì hai danh tính khác nhau trên mạng thì cộng đồng vẫn có thể nhận diện ra họ.

Trong bài viết dướng dẫn về cách sinh hoạt trên mạng dành cho Hiệp hội Kí giả Canada, Currie, Bruser, và Van Wageningen đã khuyên rằng “việc bày tỏ quan điểm về một số vấn đề nhất định và nêu những câu chuyện đùa nhẹ nhàng có thể làm cho hồ sơ của ta trong mạng xã hội trở nên gần gũi với nhiều người hơn và có thể tạo dựng được cộng đồng xã hội quanh mình.” [13]

Như lưu ý của Noah Arceneaux và Amy Schmitz Weiss, hai giáo sư thuộc ngành báo chí và truyền thông của trường San Diego State University, thì những công nghệ truyền thông như Facebook và Twitter “đã phá vỡ những khái niệm được định hình từ lâu về giao tiếp, những quan niệm vốn có về không gian và thời gian và phá vỡ cả sự khác biệt giữa không gian công và tư.” [14] Thế là cùng lúc với việc mạng xã hội tái định hình báo chí, thì giới báo chí bản thân họ cũng đang dấn thân vào việc hình thành và định hướng các quy chuẩn về cách thực hành chuyên nghiệp, chấp nhận được trong thế giới mạng.

Đoàn Khương Duy (tổng hợp)

Nguồn: Bài đã đăng trên Văn nghệ Trẻ số 12- 13 ra ngày 23- 3- 2014

——————————

[1] Poggioli, Sylvia. “Spain’s Economic Woes Take A Toll On The Media.” NPR, 12/2012:http://www.npr.org/2012/12/09/166739916/spains-economic-woes-take-a-toll-on-the-media

[2] Plunkett, John. “Murdoch predicts gloomy future for press.” The Guardian, 11/2005:http://www.theguardian.com/media/2005/nov/24/pressandpublishing.business1

[3] Morton, John. “Buffeted.” AJR, 2007: http://www.ajr.org/Article.asp?id=4416

[4] Saba, Jennifer. “Specifics on Newspapers from ‘State of News Media’ Report”. Editor & Publisher, 3/2009: http://www.editorandpublisher.com/PrintArticle/Specifics-on-Newspapers-from-State-of-News-Media-Report

[5] “Amid Criticism, Support for Media’s ‘Watchdog’ Role Stands Out.” Pew Research Center for the People & the Press, 8/2013: http://www.people-press.org/2013/08/08/amid-criticism-support-for-medias-watchdog-role-stands-out/#internet

[6] Viner, Katharine. “The rise of the reader: journalism in the age of the open web.” The Guardian, 10/2013: http://www.theguardian.com/commentisfree/2013/oct/09/the-rise-of-the-reader-katharine-viner-an-smith-lecture

[7] Bruno , N. “Tweet first, verify later: How real-time information is changing the coverage of worldwide crisis events.” Reuters Institute for the Study of Journalism, 5/2011: https://reutersinstitute.politics.ox.ac.uk/about/news/item/article/tweet-first-verify-later-new-fell.html

[8] Garcia de Torres , E ., và các cộng sự. “See you on Facebook or Twitter? How 30 local news outlets manage social networking tools.” International Symposium on Online Journalism. University ofTexas, Austin, 4/2011: https://online.journalism.utexas.edu/2011/papers/Elvira2011.pdf

[9] Messner , M. , Linke , M. and Esford , A. “Shoveling Tweets: An analysis of the microblogging engagement of traditional news organizations.” International Symposium on Online Journalism. University of Texas, Austin, 4/2011: https://online.journalism.utexas.edu/2011/papers/Messner2011.pdf

[10] Purcell , K.,  Rainie, L., Mitchell, L ., Rosenstiel, T. &  Olmstead, K . “Understanding the participatory news consumer.” Pew Internet and American Life Project, 3/2010:http://www.pewinternet.org/2010/03/01/understanding-the-participatory-news-consumer/

[11] Olmstead, K., Mitchell, A. & Rosenstiel, T. “Navigating news online.” Pew Research

Center’s Project for Excellence in Journalism, 5/2010:http://www.journalism.org/2011/05/09/navigating-news-online/

[12] Posetti, J. “BBC Social Media Summit Fixates on Creating ‘Open Media’. Tweet.” PBS Mediashift, 6/2011: http://www.pbs.org/mediashift/2011/06/bbc-social-media-summit-fixates-on-creating-open-media158/

[13] Currie, T., Bruser, B. & Van  Wageningen, E . “Guidelines for personal activity online.” Canadian Association of Journalists, 2/2011: http://www.caj.ca/?p=1347

[14] Arceneaux, N. & Schmitz Weiss, A. “Seems stupid until you try it: Press coverage of Twitter, 2006–9.” New Media and Society, 12/2010, tr. 1262 – 1279 .

Tài liệu tham khảo:

·1.Pew Research Center. http://www.pewresearch.org/

·2. Grabowicz, Paul. “The transition to digital journalism.” UC Berkeley Graduate School of Journalism, 2/2014: http://multimedia.journalism.berkeley.edu/tutorials/digital-transform/print-and-broadcast-news-vs-internet/

3. Siapera, Eugenia & Andreas Veglis (chủ biên). The Handbook of Global Online Journalism. Wiley-Blackwell, 2012.

4. Viner, Katharine. “The rise of the reader: journalism in the age of the open web.” The Guardian, 10/2013: http://www.theguardian.com/commentisfree/2013/oct/09/the-rise-of-the-reader-katharine-viner-an-smith-lecture

2 comments

  1. eNews, eBook, iBook is the trend
    Thực ra, đã rất lâu tui không mua báo, mua sách in.
    Trong cái phone, tablet có gài đủ mọi như cầu đọc.
    Tui thích như vậy vì tiện lợi, không phải đọc quảng cáo vớ vẩn, ít tốn kém, và green environment ( không cắt cây làm giấy), không cần tỷ sách chung quanh văn phòng…..
    Sớm hay muộn sẽ xảy ra ở VN, có thể chậm hơn, nhưng không thể dậm chân tại chỗ.
    VTH net là một tiên phong, not perfect yet but a good start. Good job 🙂

Bình Luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close Menu