Muốn có thơ hay người làm thơ trước hết phải sống cho đẹp

VTH – Mình cực kỳ dị ứng với các kiểu “chiếu rượu” tụm ba tụm bẩy lè nhè, tào lao, bốc “phe ta” lên giời, dúi “phe địch” xuống bùn xỉa xói của các “đại văn hào” An Nam, mà  nếu ngắm kỹ, sẽ thấy vị nào vị ấy mặt mũi nhăn nhúm, áo quần xộc xệch, cáu bẩn… Lúc đọc thơ thì tranh nhau, lúc trả tiền nhậu thì bác nào cũng già vờ… không biết! Hãi! Đọc bài này trên nhavantphcm.com, chia sẻ cùng bạn đọc:

Làm thơ để cho người khác “vịn vào đó mà đứng dậy” sau “những phút ngã lòng” như cách nói sau này của nhà thơ Phùng Quán là điều cực kì khó. Vì thế, đừng bao giờ ngây thơ và ham hố kiểu như con công nhờ con quạ lấy mực mỡ, lọ nghẹ vẻ “cái đuôi thơ” của mình cho thêm phần sặc sở. Để rồi sau đó đi lòe thiên hạ rằng ta đã “cách tân”, ta đã đi tới “hậu hiện đại”… gì đó.

1. Trước hết, tôi xin không can dự vào niềm tự hào của ai đó khi cho rằng Việt Nam ta là “cường quốc thơ ca”. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh nước ta hiện nay tôi không đồng tình với những suy nghĩ xã hội càng nhiều người biết sáng tác thơ thì càng tốt, như thể cũng sẽ góp phần “giữ vững” cái danh hiệu “cường quốc thơ ca” ấy.
Thật ra mà nói, cái “khổ” nhất của nền thơ chúng ta hôm nay theo tôi là vì có quá nhiều người làm thơ, ai ai cũng làm thơ, chuyện lớn chuyện nhỏ gì trong cuộc sống cũng được mọi người đem ra diễn đạt bằng thơ… Thế nhưng, điều đáng nói là người làm thơ thì nhiều còn người biết sống cho đẹp để làm thơ và làm cho hay thì lại rất ít. Và như thế hậu quả là thơ đứng trước nguy cơ ngày càng bị “dung tục hóa”, bị “lạm phát”, bị xúc xiểm… như thế là hại thơ, hại người đọc thơ – một sự xúc phạm nghệ thuật, xúc phạm con người chứ chẳng mang lại ích lợi gì cho đời cả. Rộng hơn nữa, nhiều khi nghĩ lại mà thấy buồn buồn, trong khi đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, thế nhưng con người suốt ngày không chịu đầu tư suy nghĩ xem có cách nào “mần ăn” chân chính góp phần làm cho đất nước ngày một giàu sang, thịnh vượng không? Trái lại, suốt ngày toàn “vò đầu bứt tai”, “đăm chiêu tư lự” để tìm cách “sản xuất” và “tiêu thụ” thơ. Nhưng hỡi ơi cuối cùng nhìn lại thơ đâu không thấy chỉ thấy một mớ chữ nghĩa xiêu vẹo, đỏng đảnh, vớ vẩn, hợm hĩnh thậm chí thô tục nữa. Đã vậy mà chẳng biết thẹn, chẳng biết ngượng lại đi sĩ diện hão rằng “ta tuy nghèo nhưng thanh nhã, cao sang”.

2. Sống đẹp là sống trung thực, sống cho tử tế, sống cho đàng hoàng, sống cho có trách nhiệm. Trước hết là với chính bản thân mình sau đó là với người thân, với họ hàng, dòng tộc (cụ thể là với cha, với mẹ, với ông, với bà, với con, với cháu)… Rộng hơn tí nữa là với hàng xóm láng giềng; với bạn bè đồng nghiệp, với học trò, với ân sư… Cao hơn nữa là với dân tộc, với đồng bào, với đất nước, với quê hương… Có sống đẹp như thế thì may ra mới biết “trăn trở thực”, “suy tư thực” về tình người, tình đời; may ra mới có thể thắm thía nỗi đau của đồng loại, may ra mới có thể khái quát thành thơ, rằng: “Trải qua một cuộc bể dâu/ những điều trông thấy mà đau đớn lòng”…
Từ yêu cầu trên, soi chiếu vào thực tế các “nhà thơ”, các “thi sĩ” của chúng ta hiện nay hẳn mọi người sẽ tự giải thích được phần nào đó tại sao thơ ca của chúng ta rơi vào khủng hoảng. Nói thật không ít những “nhà thơ”, những “thi sĩ” của chúng ta hiện nay rất ư là… “lè phè”, “luộm thuộm” và “nhếch nhác”. Với họ hàng, dòng tộc thì coi khinh; với hàng xóm láng giềng thì chiếu lệ, với bạn bè đồng nghiệp thì “bằng mặt không bằng lòng”; với đồng bào nhân dân thì “chẳng còn đâu thời gian để mắt đến vì bận sáng tác”… Tuy nhiên, nói về sự “luộm thuộm” nhất của các “thi sĩ” ở ta hiện nay có lẽ là khi họ ngồi vào “chiếu rượu” sau mỗi lần gặp gỡ đồng nghiệp hay sau mỗi cuộc họp hành, hội thảo có chiêu đãi tiệc tùng. Có tận mắt chứng kiến các “văn nhân, thi sĩ” trong những buổi tiệc liên hoan mới hiểu như thế nào là sự chua chát cho những người chuyên làm nghề “phun châu nhả ngọc” sau cái vẻ bề ngoài đạo mạo và đầy chất “nghệ sĩ” của họ. Vào cuộc họp chính thức thì khúm núm, rụt rè nhưng khi trong người “có 200 đồng rượu” rồi thì ăn nói văng mạng, rồi cạnh khóe, hết “xỏ” người này đến “xiên” người nọ. Khi chưa có rượu thì “đức cao vọng trọng”, rượu vào rồi thì “men tình” bốc cháy, tay chân “quờ quạng”, “bốc hốt” lung tung; chưa có rượu thì đằm thắm nết na, rượu vào rồi thì “cha anh gì cũng mặc”. Dĩ nhiên, không phải qua chuyện này mà đánh giá toàn bộ tư cách con người nếu như đó chỉ là một, hai lần “cao hứng”. Thế nhưng, cũng không thể không nhìn nhận đó là một yếu tố, một khía cạnh không thể bỏ qua nhằm khẳng định đây là người có tâm hồn lành mạnh đang phụng sự cái sứ mạng cao đẹp là tạo ra những vần thơ giúp khai phá và làm “lành mạnh hóa tâm hồn” của con người. Bởi có không ít các “văn nhân thi sĩ” lần nào cũng như lần nấy hễ ngồi vào “chiếu rượu” là bắt đầu bộc lộ sự “lè phè”, “luộm thuộm”. Thậm chí có người còn tự cho mình cái quyền vì là “nghệ sĩ” nên có “đổ đốn”, có “hư đốn” một chút cũng không sao!

3. Thơ rất thiêng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người lại khẳng định như vậy. Thơ thiêng vì nó được tạo ra bởi những con người, những tâm hồn cũng rất thiêng. Xưa Nguyễn Du bảo ông làm thơ là nhằm giúp người đời “mua vui” trong vài “trống canh”. Người ta bảo Nguyễn Du khiêm tốn. Điều này đúng. Bởi vì khiêm tốn cũng là một cách ứng xử của những tâm hồn đẹp. Tuy nhiên, khi Nguyễn Du nói như vậy là ông đang rất tự tin ở tài thơ của mình. Vì sao? Vì không dễ gì làm thơ để người khác đọc vào mà tâm hồn họ vui và phấn chấn lên đâu. Làm thơ để cho người khác “vịn vào đó mà đứng dậy” sau “những phút ngã lòng” như cách nói sau này của nhà thơ Phùng Quán là điều cực kì khó. Vì thế, đừng bao giờ ngây thơ và ham hố kiểu như con công nhờ con quạ lấy mực mỡ, lọ nghẹ vẻ “cái đuôi thơ” của mình cho thêm phần sặc sở. Để rồi sau đó đi lòe thiên hạ rằng ta đã “cách tân”, ta đã đi tới “hậu hiện đại”… gì đó.
“Thơ thiêng” chỉ có thể nảy sinh từ một “tâm hồn thiêng”.

NGUYỄN TRỌNG BÌNH
Theo VHQN
Nguồn nhavantphcm 

Bình Luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close Menu