VTH – Nhà văn Trần Quang Vinh là cây bút kỳ cựu của Hội VHNT Tỉnh BRVT. Tôi nhớ từ khi tôi còn là cô gái trẻ mới ra trường đã đọc nhiều tác phẩm của anh trên các tờ báo lớn. Không thích nói nhiều về mình, anh chỉ lặng lẽ sáng tác và là một trong những người biên tập kỹ tính của tạp chí Văn Nghệ Tỉnh BRVT.
Mời bạn đọc truyện ngắn anh gửi vuthanhhoa.com. Truyện đã đăng trên báo Văn nghệ Hội Nhà văn VN, sau đó báo Vietnam News dịch sang tiếng Anh và đăng lại năm 2003:

- Nhà văn Trần Quang Vinh sinh năm 1949, quê ở làng Phong Lưu, xã Phong Cốc, huyện Yên Hưng (nay là phường Phong Cốc, TX Quảng Yên). Năm 1966, ông nhập ngũ, trở thành pháo thủ cao xạ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ. Năm 1971, bị thương ở Nam Lào, ông phải ra Bắc điều trị. Sau đó, ông học Trường Quân chính QK3 rồi về đại đội súng máy 12,7 ly Trung đoàn 42. Năm 1977, ông chuyển ngành, về công tác ở Phòng Tổ chức, Sở Giáo dục Quảng Ninh.
- Sau đó, ông học đại học chuyên ngành lịch sử Đảng và làm giảng viên Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ.
- Đầu năm 1990, ông chuyển vào Vũng Tàu làm báo, viết văn. Trước đó, ông đã tham gia viết báo Phòng không Không quân, Báo Quân đội Nhân dân và Báo Tiền Phong từ năm 1974.
- Ông đã cho ra mắt bạn đọc các tác phẩm: “Sống lại ngày đã chết” (Tiểu thuyết, NXB Thanh niên, 1994), “Vòng đời bé nhỏ” (Tập truyện ngắn, NXB Lao động, 1996), “Nợ tiền kiếp” (Tập truyện ngắn, NXB Hội Nhà văn, 2005), “Đứa con của thần linh” (Tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, 2009), “Hắn và những chuyện linh tinh của đàn ông” (Tập truyện ngắn, NXB Văn hoá văn nghệ, 2014)…
KÝ ỨC LÀNG XƯA
Truyện ngắn
… Cha tiên sư tam đại, tứ đại, ngũ đại cái quân giang hồ tứ chiếng, đánh đĩ mười phương! Mày cậy ái ố mỹ miều, cổ kiêu ba ngấn thì cứ việc xắn quần vén váy giữa bàn dân thiên hạ cho cú rúc, quạ đâm, kiếm cơm phúng cha, dưỡng mẹ! Cớ sao lại vập mặt về đây quyến rũ chồng bà? Này, bà nói cho mà biết nhá! Con chim của chồng bà ở nhà là giống là má, là vàng là ngọc. Chui vào bướm mày là rắn, là rết, là ma là quỷ. Tổ sư cha cái giống gà què ăn vụng cối xay, chín kiếp ăn mày, bảy đời sãi mõ, chó cái có hom! Bà chửi cho mày phải khoan tai ra mà nghe. Khoét mắt ra mà nhìn. Chớ tưởng mặt bà bé choắt mà xem thường nhá! Mặt bà bé choắt đấy! Nhưng là choắt hoa, choắt ngọc, choắt thóc, choắt tiền. Còn cái mặt mẹt của nhà mày dẫu tròn! Cái bướm của mày dẫu to! Cũng chỉ là loại đĩ voi, đĩ ngựa, đĩ chó, đĩ mèo, nửa trinh không đáng! Muốn sống mà nằm ngửa thì cuốn xéo đi nơi khác cho khuất mắt bà. Mày còn ở xóm Trại thêm một ngày, bà ăn thêm một bữa cơm chửi mày một ngày. Ở thêm hai ngày, ba ngày, bà ăn hai ba bữa cơm chửi mày hai ngày, ba ngày… Rát họng bà uống nước chanh. Mệt bà ngậm sâm. Qua tuần ăn chay lại mổ gà tẩm bổ chửi cho sướng miệng nhá!
Mụ Phó Kền dừng chửi, hậm hực quay vào thềm cửa, chiêu ngụm nước vối trong chiếc ấm đất nuốt ừng ực, thở hào hển.
Phía bên kia hàng rào tre, nhà Gái Hoa đã thắp đèn, yên ắng như không có chuyện gì xảy ra.
A, hỗn láo! Quá hỗn láo! Nó dám coi thường, không thèm chửi giả bà đến một câu! Cả làng này ai chả biết cái giống mạt hạng nhà nó. Thằng bố chuyên nghề sãi mõ. Ông nội nó cũng là sãi mõ. Cụ kỵ nó vẫn là sãi mõ! Quanh năm rạc cẳng lốc cốc, bốc bải xôi thừa, thịt ôi ở đình làng. Nó là con Hĩm, vắt mũi chưa sạch đã ngứa nghề, bỏ nhà theo giai. Bây giờ lại đổi tên Hĩm thành Hoa. Trơ trẽn ôm con hoang về làng lên mặt thành phần bần cố, đòi chia vườn, chia ruộng. Vẩy mông ưỡn ngực chim chuột đàn ông. Nghĩ mà căm! Thời buổi lộn tùng phèo mất rồi!
Mụ Phó bực bội kéo vạt áo lau mồ hôi trên mặt. Tiện tay hất hất vạt áo ra phía trước cho đỡ nóng. Chợt nghe tiếng cựa mình cạu cọ của lão chồng say xỉn đang nằm lăn lóc trên chiếc phản gỗ, mụ giả bộ đi ra sau nhà đóng cửa chuồng gà. Mụ sợ chồng bắt gặp đang chửi Gái Hoa.
Người làng ai cũng biết điểm yếu đó của mụ. Họ thường bàn tán rằng, sự đời thật trớ trêu. Cái con mụ trời đánh thánh vật, đanh đá cá cày, chua ngoa hơn mẻ ấy lại sợ chồng mới là chuyện lạ! Mà lão Phó Kền, chồng mụ, thì củ mỉ cù mì, hiền như cục đất. Chưa bao giờ thấy lão to tiếng gây gổ với ai.
Nhưng nói đi phải nói lại. Ngày trước mụ Phó cũng là một thiếu nữ hiền thục đoan trang. Tên cha mẹ đặt là Ngô Thị Vân. Về nhan sắc tuy có phần lép vế. Mặt nhỏ choăt, thân hình khô cứng như đàn ông. Nhưng bù lại, thị là con gái cưng của một gia đình nền nếp khá giả.
Nghe nói, ông nội từng đỗ cử nhân ở khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn. Năm mười tám tuổi, gia đình gả Vân cho cu Kền, con trai thứ tư của ông thợ đóng cối xay thóc ở làng bên.
Ngày Vân mới về làm dâu, cu Kền, tức chồng thị, mơí mười ba tuổi, tanh như ngóe. Cu Kền gọi vợ là chị. Làm dâu được sáu năm, khi Kền đã biết làm người chồng thực sự, bố mẹ vợ bèn mua cho miếng đất ở xóm Trại. Lại bỏ tiền xây căn nhà gạch ba gian để vợ chồng ra ở riêng, rồi cắt cho năm sào ruộng mật ở đồng La làm của hồi môn.
Người ta bảo, lấy vợ như Kền đúng là chuột sa chĩnh gạo. Thật ra Kền không mấy quan tâm đến của nả, anh ta tiếp tục theo nghề phó cối của bố nên mới gọi là Phó Kền. Quanh năm lang thang khắp tổng Hà đóng cối cho dân mấy làng, thi thoảng Phó Kền mới ghé qua nhà ngủ với vợ một đêm.
Đó cũng là nguyên do gây ra nỗi uẩn ức mà mụ vợ phải gánh chịu. Ấy là cái sự Phó Kền ăn nằm với một người đàn bà góa ở làng La. Mụ Phó đã không hề hay biết, chỉ tới khi con mẹ ấy ẵm đứa bé trai ba tháng tuổi, giống Phó Kền như lột, đến trả để đi tái giá, mụ mới điếng người trước sự việc đã rồi.
Cụ cố nội bảo, trong cái rủi có cái may. Rằng mình là vợ điếc. Có lỗ đái mà chẳng có lỗ đẻ. Không nhẽ thằng chồng cam chịu tuyệt tự? Thôi thì hỏng nồi vơ rế. Dù sao cũng là giọt máu của chồng mình. Cứ nuôi dưỡng đứa bé, nó sẽ là con mình, lúc về già còn có đứa chống gậy. Coi như số phận đã an bài, đành chịu lép với ông giời, mụ Phó Kền lặng lẽ chấp nhận, đặt tên đứa bé là Kềnh
Nuôi cu Kềnh cũng vất, bận rộn, nhưng căn nhà ấm cúng hẳn lên. Lâu dần mụ Phó cảm thấy cu Kềnh như con mình đẻ ra, mụ yêu nó lắm. Những tưởng ông giời đã bù đắp ân huệ, nào ngờ cái con mẹ góa đĩ thõa ấy đùng đùng vác mặt trở về, trâng tráo đòi lại cu Kềnh. Tổ sư cha cái quân ăn cháo đái bát, mặt dày, mày dạn! Nó vụng trộm với chồng bà rồi cào bướm ăn vạ, vứt con vào nhà bà xơn xớt nói rằng giọt máu của lão Kền, giữ lấy mà nuôi. Lúc muốn đòi con thì lật mặt bảo, bố đứa bé là người danh giá đàng hoàng chứ không phải thằng phó cối!
Hôm cu Kềnh bị bắt mang đi, nó co rúm lại, ôm chặt lấy mụ Phó khóc thét gọi bu ơi, bu ơi! Mụ Phó uất quá, ngất xỉu. Dù thuộc loại bà chằn ở làng, nhưng mụ Phó buộc phải chịu thua. Thôi thì tránh voi chẳng xấu mặt nào. Nghe nói con mẹ goá nạ dòng ấy đã kiếm được ông chồng quyền thế, nhưng mắc căn bệnh oái oăm gì đó, không có khả năng làm con giống đực nên mới giành lại cu Kềnh .
Từ ngày mất con, nhà mụ Phó lạnh tanh như có đám. Lão chồng về đến nhà là say xỉn. Chưa thật say thì rót thêm rượu trong chiếc hũ sành uống cho say, rồi lăn ra ngủ.
Nếu có người gọi đóng cối, lão lẳng lặng gánh đồ đi khỏi nhà. Không có việc làm lão ngồi một mình nhâm nhi chén rượu suông. Còn mụ Phó thì sinh tật, thích gây gổ với láng giềng. Trước kia mụ đã thuộc loại đàn bà chua ngoa độc địa, nhưng cũng chỉ chửi rủa những người dám cà khịa với mình. Bây giờ tức đời mụ chửi tuốt tuồn tuột, chửi cho vơi nhẹ nỗi đau đớn đắng cay.
Ở xóm Trại này mụ Phó căm nhất Gái Hoa, con lão Sãi Oản. Gái Hoa mới được chia miếng đất làm nhà kề vườn bưởi nhà mụ. Nghe nói, bố của Sãi Oản, tức ông nội Gái Hoa, là dân tứ chiếng lưu lạc đến làng này. Dạo ấy, mõ làng vừa bị chó dại cắn chết nên kẻ lạc loài kia mới được thay chân sãi mõ. Làng dựng cho sãi làng túp lều nhỏ ở góc cuối chợ để ở. Sau này Sãi Oản thừa kế chân sãi mõ của bố. Do thân phận nghèo hèn nên tuổi băm Sãi Oản vẫn không lấy được vợ. Một lần có ông lão ăn mày qua làng, dẫn theo cô con gái mặt mũi tròn trĩnh trắng trẻo, nhưng hai mắt thong manh. Sãi Oản xin lão ăn mày lấy cô gái mù làm vợ.
Người vợ thong manh ở cữ bốn lần nhưng chỉ nuôi được con Hĩm. Năm Hĩm mười sáu tuổi đã thành một thiếu nữ xinh đẹp, thắt đáy lưng ong, nước da trắng mịn như trứng gà bóc. Trai làng nhiều anh si mê, nhưng không ai dám cưới con gái sãi mõ, loại hèn kém nhất làng làm vợ.
Thế rồi Hĩm biến khỏi làng.
Sau khi quân Pháp thua trận rút khỏi miền Bắc, hoà bình lập lại, Hĩm trở về với tên mới là Hoa, dẫn theo đứa con gái nhỏ xíu, nên người quê gọi là Gái Hoa. Theo lời Gái Hoa thì bố của đứa bé là liệt sĩ. Gái Hoa được chia miếng đất mới tịch thu của địa chủ ở xóm Trại, kề bên mảnh vườn nhà Phó Kền. Nhờ dân làng giúp đỡ, Gái Hoa dựng căn nhà tre để ở. Bấy giờ Sãi Oản đã mất, Gái Hoa đón bà mẹ mù lòa về ở với mình.
Đúng là gái một con trông mòn con mắt. Gái Hoa bây giờ còn mặn mòi xinh đẹp hơn thuở trước. Cặp mắt ướt át mời gọi, bộ ngực no tròn nhày nhót gợi tình. Cánh đàn ông trong làng như bị hớp hồn, nhiều ông vợ con đề huề vẫn kiếm cớ thậm thụt tìm đến.
Một lần mụ Phó nhìn thấy Gái Hoa lén lút đào hố chôn mớ lông gà ở góc vườn. A, con này ghê thật! Giữa bàn dân thiên hạ nó xưng xưng kể nghèo kể khổ! Vậy mà dám mổ gà tẩm bổ, chẳng thua gì ông chánh, ông lý ngày trước.
Ở làng này, giàu có phong lưu như Bạ Sùng cũng chỉ dám thịt gà vào dịp giỗ tết, hoặc thết khách quý trên tỉnh về. Còn nó là quân mạt hạng, tiền ở đâu ra? Hay nó bắt trộm gà hàng xóm? Tung tích con này thật đáng ngờ, phải theo dõi làm cho ra nhẽ mới được.
Chờ tối hẳn, mụ Phó lách rào mò sang nhà Gái Hoa, rình ở bức vách sau nhà. Nghe tiếng thì thào rên rỉ, rồi tiếng va chạm cót két phía trong, mụ hồi hộp ghé mắt áp vào tấm liếp che cửa sổ. Trong ánh đèn dầu tù mù, mụ thấy một gã đàn ông to khỏe đang đè ngửa Gái Hoa trên giường. Cả hai trần như nhộng.
Mụ ngẩn người một lúc, định hô hoán hàng xóm đến bắt quả tang. Thoáng do dự, mụ lại lặng lẽ dán mắt vào tấm liếp nhìn trộm quân đĩ bợm làm tình. Đang độ tuổi hồi xuân. Dẫu lấy chồng đã trên hai mươi năm, nhưng chưa lần nào mụ có cảm giác rạo rực như lúc ấy.
Lúc trở về nhà, mụ nằm lăn ra chõng tre thở hổn hển. Ngó sang phía chồng đang ngáy khò khò ở giường bên, bất giác mụ bật tiếng thở dài. Lão Phó Kền kém mụ năm tuổi, còn đang sung sức lắm. Nhưng ở đâu thì chẳng biết chứ đối với vợ lão quá thờ ơ. Về tới nhà là say. Có đêm mụ phải chủ động đánh thức lão mới chịu miễn cưỡng làm phận sự ông chồng.
Quân khốn nạn! Mụ Phó cảm thấy thù hận Gái Hoa vô cùng. Nó xuất thân mạt hạng! Đánh đĩ tứ phương còn dám trâng tráo vác mặt về đây! Chẳng hiểu tại sao lũ đàn ông ở làng lại cười cợt nịnh bợ, xoắn xít tít mù chung quanh nó, không còn ra thể thống gì nữa!
Ừa, mà thằng nào dám trốn vợ mò đến hú hí với nó nhỉ? Mụ cố nhớ lại hình dáng gã đàn ông đè ngửa Gái Hoa trên giường. Phải rồi, đích thị là Giáo Ngôn. Cháu nội cụ Tiên Chỉ. Đã nhiều lần mụ bắt gặp Giáo Ngôn đến nhà Gái Hoa. Lại còn cho quà đứa bé gái? Rồi anh chị trò chuyện tình tứ lắm. Chẳng hiểu sao chữ nghĩa như Giáo Ngôn vẫn ăn phải bùa con đĩ ấy nhỉ?
Mà lạ gì sự đời! Đứa nào bên ngoài chẳng làm ra vẻ đức hạnh. Mở miệng là răn dạy chữ nghĩa thánh hiền, nhưng bụng dạ thì cứt cả!
Rồi mụ lại nghĩ vẩn vơ về số kiếp của mình. Cả đời chưa hề thiếu thức ăn thức mặc, dưng mà cái tâm thì khổ chẳng ai bằng. Mụ Phó luôn cảm thấy tức tưởi cho thân phận mình. Người đời không hiểu nỗi chua cay u uẩn của mụ.
Từ dạo Gái Hoa về ở cạnh nhà đã là lần thứ hai Phó Kền chữa cối xay cho nó. Lần trước lão làm gần một ngày. Lúc về mặt tươi hơn hớn, nồng nặc mùi rượu. Không thấy lão đưa tiền công nhưng mụ không dám hỏi. Chắc con đĩ ấy nó nằm ngửa để trả công rồi. Mụ Phó tức lắm nhưng cũng chỉ chửi trên mây, trên gió. Lần này nó dìu lão Phó Kền say mèm sang tận ngõ. Mụ điên tiết gạt phắt tay nó. Bế thốc lão chồng vào chiếc phản lim. Cắt một lát gừng đánh gió. Phó Kền nôn oẹ khùng khục, rồi há hốc mồm ngủ say như chết.
Quân chó má! Chỉ được cái tài chim chuột đàn ông. Bà phải đào mả ông mả cha mày lên cho bõ tức.
Mụ Phó đã định chửi thêm một chập nữa, nhưng thấy chồng cựa mình thức giấc nên lại thôi.
Đêm về khuya, làng xóm im phăng phắc. Tiếng con mèo cái động dục gào lên thê thiết. Mụ Phó trằn trọc khó ngủ. Lặng lẽ ra ngồi trước hiên nhà, quạt phành phạch. Mụ ngẩng nhìn trời vẻ lo âu. Hướng đông những cụm mây đen đang đùn lên che dần các vì sao. Gió bắt đầu nổi lên.
Một lúc sau gió mạnh dần. Những tảng mây gà con lao vùn vụt trên bầu trời. Thời tiết này chắc sẽ bão to. Lẩm bẩm một mình lòng dạ bất an, mụ đi vòng quanh nhà một lần nữa. Xem lại chuồng gà. Lấy tấm liếp chắn trước cửa chuồng heo. Ở xóm Trại này chỉ duy nhất nhà Phó Kền được xây cất chắc chắn. Nền gạch cao hai thước. Cột gỗ lim, tường gạch, lợp ngói âm dương. Đã qua nhiều trận bão lớn vẫn không suy suyển gì.
Mưa gió tầm tã kéo dài từ canh hai đến hết đêm. Sáng ngày hôm sau mưa chỉ còn lất phất. Nhưng trời đổi hướng gió tây, quật phá tơi bời.
Bão to rồi! Tiếng trống thúc hộ đê thình thình hối hả. Ông trưởng xóm cầm loa cuộn bằng kẽm tôn chạy khắp nơi đốc thúc.
Phó Kền còn đang ngái ngủ đã có người đến đập cửa bảo, bác phó trai đem cuốc xẻng ra đê Cống Trộm ngay nhá. Nguy lắm! Không chừng đê vỡ đến nơi.
Gió mỗi lúc một mạnh lên. Vật vã quằn quại. Nhiều ngôi nhà bị tốc mái, kèo cột lung lay xiêu vẹo, cây cối ngả nghiêng bật gốc. Xóm Trại nằm biệt lập giữa cánh đồng chiêm trũng của tổng Hà vốn thấp hơn mặt nước thủy triều. Nếu đê vỡ tất cả sẽ chìm trong biển nước. Tai họa khủng khiếp đang tới gần. Người ta nháo nhác chuẩn bị thuyền mảng để chạy lụt.
Quá giờ Ngọ, gió chuyển hướng nồm nam. Sức gió giảm dần, mưa đổ xuống như trút. Dễ bão sắp tan! Mụ Phó mở cửa nhìn ra ngoài trời ước đoán. Bỗng tiếng trống làng thôi thúc dồn dập như cháy nhà. Đầu xóm tiếng người gào to hoảng hốt:
– Vỡ đê rô … ồi, bà con ơi!
Những tiếng ồn ào náo động. Nước réo ầm ầm trên cánh đồng.
Mực nước dâng lên cao dần … Chỉ thoáng sau nước đã luồn qua bờ rào. Xoáy tròn quanh từng gốc cây. Trườn lên khoảng sân. Rồi tràn vào thềm cửa. Phút chốc xóm Trại trắng xoá. Nước cuồn cuộn chảy …
Đã từng trải qua bao thiên tai địch họa nơi đồng quê heo hút, nhưng lần này mụ Phó không giữ được bình tĩnh. Mặt tái mét, chân tay run lẩy bẩy. Mụ tính, gom tiền bạc quần áo chạy vào làng. Lại kịp nghĩ rằng đường vào làng đã ngập nước, mà ở xóm Trại cũng không còn nơi nào chắc chắn hơn nhà mình. Thôi thì sống chết có số, cũng đành phó mặc ý trời. Chỉ còn cách duy nhất là tránh lụt ngay tại căn nhà này.
Vốn là người lanh lợi tháo vát, mụ vội tháo các cánh cửa gỗ gác lên xà nhà. Chuyển đồ đạc, quần áo, chăn màn, thóc gạo lên đó. Mụ cũng không quên mang theo nồi niêu xoong chảo đề phòng nước ngập lâu dài.
Nước đã dâng đến chân giường. Chợt nghe đàn gà quang quác phía sau nhà, mụ bèn xắn quần bì bõm lội ra tháo cửa chuồng gà. Tóm từng con gà nhét vào lồng. Cùng lúc ấy, mụ Phó nghe tiếng trẻ con khóc bên nhà Gái Hoa.
– Bu ơi! Bu ơi! …
Tiếng trẻ thơ gào khóc gọi mẹ nghe đến xé lòng! Giống như tiếng kêu thảm thiết của cu Kềnh khi bị bắt mang đi ngày nào.
Ơ, mẹ con Gái Hoa muốn chết hay sao mà vẫn bám căn nhà ọp ẹp đó! Chẳng nghĩ ngợi gì thêm, mụ Phó tất tưởi rẽ nước sang nhà Gái Hoa. Lúc bấy giờ nước đã ngập ngang thắt lưng, nếu không nhanh chắc không quay về kịp.
Mụ Phó lao vào nhà nhà Gái Hoa. Mấy bức vách đã bị nước cuốn bung từng mảng. Mẹ con Gái Hoa cùng bà Sãi mù loà ôm tay nải quần áo, đứng nép vào nhau trên chiếc vạt giường tre lấp xấp nước. Mụ Phó ôm vội đứa bé rồi quát bảo Gái Hoa mau dìu bà Sãi sang nhà mình.
Nước mỗi lúc một dâng cao cuốn theo đồ đạc, bàn ghế, chó mèo lợn gà… Phải vất vả lắm, mụ Phó mới bế được đứa bé lội nước ngược trở lại. Ngoái nhìn không thấy Gái Hoa cùng bà Sãi đâu. Mụ Phó sốt ruột đặt đứa bé lên chiếc sập gụ, lội ra sân tìm bà Sãi cùng Gái Hoa.
Nước đã lên tới ngực. Mưa ập xuống xối xả. Thoáng thấy có người vùng vẫy trong xoáy nước, mụ vội lao ra túm tóc lôi lên. Thì ra là Gái Hoa, còn bà Sãi mẹ Gái Hoa mù lòa đã bị nước cuốn mất tăm.
Trời tối hẳn. Gió đã ngừng thổi. Mưa vẫn ào ào rơi trên mái ngói. Mụ Phó thắp đèn bão treo lên dui nhà, rồi lặng lẽ ngồi xuống tấm cửa gỗ gác giữa hai cây xà.
Tiếng nước chảy lách tách phía dưới. Một con rắn cạp nong quấn lấy thân cột ngóc đầu lè lưỡi như muốn hăm dọa. Cách chỗ mụ Phó ngồi một đoạn, mẹ con Gái Hoa đang thảng thốt ôm lấy nhau thiu thiu ngủ. Nhìn khuôn mặt tròn trĩnh xanh xao của đứa bé áp trên bầu ngực căng đầy phập phồng theo nhịp thở của mẹ, bất giác từ trong khoé mắt khô khốc của mụ những giọt nước nóng hổi trào ra …
CHÚ THÍCH CỦA TÁC GIẢ
Xóm Trại là nơi tôi ra đời.
Sau trận bão lụt năm Ất Mùi nhà tôi chuyển đến vùng quê mới để lập nghiệp.
Nửa thế kỷ trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ về bà Phó Kền cùng những người hàng xóm ở đó. Mới rồi gặp lại người bạn đồng hương, tôi có hỏi thăm về bà Phó Kền cùng mẹ con cô Gái Hoa. Theo lời kể của người bạn thì sau này bà Phó Kền đã xin cưới Gái Hoa làm vợ bé cho chồng mình.
Đáp ơn cứu mạng, cô Gái Hoa chấp nhận. Họ sống với nhau rất hạnh phúc.Quả là điều kỳ lạ!
Cô Gái Hoa đã sinh cho ông bà Phó Kền cả thảy bảy người con, trong đó có bốn trai. Tất cả đều phương trưởng thành đạt. Bà Phó Kền đã qua đời, hưởng thọ tám mươi tư tuổi .
Người làng nói rằng, bà Phó Kền tuy độc miệng, nhưng là người có tâm. Mà sống ở trên đời, có tâm là có phúc, có phúc là có phận. Ông giời chẳng quyên ai bao giờ .
Trần Quang Vinh
Truyện dịch sang tiếng Anh trên báo Vietnam News.
Truyện hay quá cô !!. Tuyệt vời
Truyện hay lắm. Cảm ơn trang Vũ Thanh Hoa và tác giả
Truyện quá hay ! Chanh chua chao chát như vậy, để cuối cùng hiện ra cái tâm quá lớn , quá bao dung . Thật nhân tình ! Cảm ơn Vũ Thanh Hoa và tác giả Trần Quang Vinh !