3.
Bến đỗ thứ ba: Sự tỉnh táo
Sự tỉnh táo là cấp bậc mà (cái gọi là) thời kỳ lịch sử duy trì sự xuất hiện của con người. Khi con người rơi xuống biên giới của không-sự sống, trước khi bị tiêu hủy nó đứng lại, và con người đứng trân trân này bỗng ngoan ngoãn nghe theo lời kêu gọi từ sự quên lãng của đất, từ vương quốc của sự tăm tối và của thần chết và tỉnh giấc.
Kẻ tỉnh dậy đầu tiên là Adam sau đó đến Êva, và từ đó đến nay lần lượt tất cả chúng ta thức dậy. Chúng ta đã từng đóng vai chủ tạo hóa, giờ đây chúng ta được mời đến như khách trong cuộc sống trần tục.
Khi rơi xuống con người đã đánh mất sự nhận thức cổ và lòng yêu thương, giờ đây sinh ra từ đất, con người cần lấy lại cả hai thứ này, được bao nhiêu tùy sự có thể của nó. Trong hình hài này con người mang dấu đã ấn định của các Quyền lực (tüposz), mang tính cách cá nhân hóa (cái TÔI). Nó bị xác định trong không –thời gian, và sống một đời sống có hạn.
Loại, tính cách, không gian và thời gian không chỉ là sự hạn chế: đó còn là những khả năng và những điều kiện dành cho con người để nó quay trở lại. Trong loài ẩn giấu những sức mạnh mà con người có thể sử dụng; cái TÔI là thứ công cụ để linh hồn diễn đạt các sức mạnh; không gian là vị trí để nó sống và dành cho các hoạt động của nó; còn thời gian là thứ ân huệ lớn nhất : nếu con người ngay lập tức một lần quyết định và không bao giờ rút lại, nó sẽ rơi xuống vật chất một cách yếu ớt; thời gian là sự kéo dài khả năng tiến tới thức tỉnh- bởi linh hồn thức tỉnh cần thời gian.
Trong sự sống trần thế con người sống giữa các điều kiện bị phá hỏng bởi các Quyền lực. Nhưng như truyền thống Hermetikus hoặc thuật giả kim đã nói: không phải các sinh linh mà là bản chất của sự sống, hay dùng từ khác: các ý tưởng ban đầu của sự sống đã bị phá vỡ.
Quá trình cá nhân hóa, sự hư hỏng của cái TÔI cá nhân là hình ảnh của sự sống bị phá hỏng. Linh hồn sống trong thế gian vật chất, rất hãn hữu hoặc có nhớ lại cũng khá mơ hồ trạng thái trong sạch cổ. Cái ngự trị linh hồn là sự đờ đẫn vì vật chất. Nếu linh hồn nhớ lại, dù rất ít, trạng thái sáng sủa của nó nó sẽ nhận ra rằng sự thức tỉnh từ cái chết không hề tự nhiên, mà theo đúng nghĩa của từ ngữ, đấy là khoảnh khắc trái tự nhiên, siêu nhiên. Và khi linh hồn ngày càng thức tỉnh hơn nó sẽ dần dần nhận rõ hơn, sự tái sinh từ thế gian vật chất thực ra là sự sống lại, sự phục sinh.
Huyền thoại ghi nhận biến cố này khi cho rằng NGÀI đã tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Ở Palestin đấy là Jahve, ở Peru là Virakocsa tạo ra ánh sáng, trong thứ ánh sáng này con người hóa đá, tê liệt, biến thành đất một lần nữa có thể thức tỉnh. Thượng đế từ cát bụi sinh ra và hà hơi thở cho nó lần nữa.
Trong thời Alexandria người ta gọi sự ra đời tất nhiên là geneszis còn sự thức tỉnh có tên là ta geneszia. Bởi bản thân sự ra đời tất nhiên không mang ý nghĩa gì, nếu không cùng lúc là sự thức tỉnh của linh hồn.
Trong trạng thái thức tỉnh sau chấn động dữ dội, linh hồn một lần nữa mở ra. Nơi nó tìm thấy nó, giờ đây không phải là sự sống nữa mà chỉ là đời sống. Truyền thống không diễn đạt được trạng thái đời sống bằng một từ duy nhất vì cả trạng thái cổ cũng không biết. Khả năng đặt tên chính xác dành cho con người đã bị mất; cái còn lại chỉ là sự đặt tên mang ý nghĩa tượng trưng; nhưng những hình ảnh tượng trưng của thời cổ cũng bị mất, bởi vậy con người thời kỳ lịch sử gần như sống với những khái niệm câm và mù lòa.
Có thể đánh dấu trạng thái cổ của sự sống bằng các khái niệm như: sự thống nhất của kiến thức và tình yêu thương: là hình ảnh trái tim bốc lửa. Nhưng thời điểm thức tỉnh là lúc đã không còn sự sống, chỉ còn đời sống.
Và trạng thái đời sống này một lần nữa chỉ có thể diễn đạt một cách thiết thực, hai chiều bằng hai từ: sự sợ hãi và sự đau khổ. Thống nhất hai từ này là một sự bất lực. Tại sao? Bởi vì nơi hai từ này gặp gỡ nhau nằm xa khung diễn giải của ngôn ngữ ngày nay, bởi vì sự diễn giải muốn đời sống dính mắc trong cội rễ của nó, nhưng trong trạng thái của đời sống, ngôn ngữ đã không bao giờ có thể gắn bó trong cội rễ của nó được nữa.
Giáo huấn Sankhja bắt đầu bằng câu: đời sống là đau khổ. Đạo Phật cũng nói đúng như thế. Nhưng bằng sự đau khổ cả Sankhja lẫn đạo Phật đều muốn nói lên sự hợp nhất của sợ hãi và đau khổ, và từ đau khổ thường xuyên được sử dụng.
Một đối thoại của Hermes Trismegistos, khi nói về trạng thái cổ và thời kỳ sa ngã của con người có nói: sự run sợ -phobosz đã tóm lấy Tạo Hóa. Sự sợ hãi này là một trạng thái ban đầu cổ xưa đến mức từ đây theo nhiều nghi chép Ấn cổ Atman sở dĩ tạo ra thế giới bởi vì” sợ một mình”.
Böhme, người mà trực giác huyền bí khó có thể lầm trong lời giải thích viết cho Genezis đã viết về hai bản năng của Tạo Hóa. hai bản năng đó là:” Y chí cứng như đá” và „Niềm vui tự do”. Hai bản năng này, Böhme nói thổi bùng lên đam mê hướng về nhau, và trong khoảnh khắc, khi cả hai chạm vào nhau” Sự run rẩy nổ toang”(Schrack) như khi chớp giật.
“Trong sự khủng khiếp này ngọn lửa đầu tiên nhóm lên. Bởi ý chí cứng như đá không là gì khác ngoàibóng tối và sự đông cứng, giờ đây từ ánh sáng và từ sự mềm mại bao bọc của niềm vui tự do, nó run lên. Trong ý chí cứng như đá, khi trong chính bản thân nó tự bóp ngạt tính ích kỷ lạnh lùng đóng băng và khóa trái bản thân nó lại, ghê sợ của cái chết nhen nhúm. Bởi bản chất của bóng tối là sự ghê sợ; Như vậy nó tự kìm hãm nó vào bản thân nó, như nỗi losợ ánh sáng, như kẻ thù của ánh sáng. Và đây là trạng thái cổ của thế giới tối tăm, đây là bản thân thế giới tối tăm.”
Nỗi sợ hãi, phobosz, Schreck mà szmti của Ấn độ, hay Hermes và Böhme nhắc đến là nỗi sợ hãi từ sự đau khổ; Sự đau khổ mà Phật và Sankhja nói đến là sự đau khổ bởi sợ hãi. Cả hai là một, sợ hãi là đau khổ và đau khổ là sợ hãi.Mọi sự sống trần thế đều đau khổ; nhưng mọi sự sống trần thế đều là sự sợ hãi.
Đây là trạng thái của đời sống. Con người run rẩy và đau đớn, rùng mình, lo âu trong trạng thái thức tỉnh từ bóng tối đi ra, trong những tia nắng đầu tiên của sự sáng sủa.
“Sự sợ hãi- Böhme nói -là một dạng của sự nhậy cảm, là kẻ đánh thức tâm trạng, là một cái gì đó thôi thúc cảm giác hoạt động.”
Sự sợ hãi và sự đau khổ thực ra là một dấu hiệu mơ hồ đầu tiên của sự tỉnh táo. Đau khổ và sợ hãi xuất hiện để con người đừng rơi vào sự tăm tối,cái chết và sự quên lãng một lần nữa: tất cả mọi người cần phải đau khổ và sợ, để thức tỉnh.
Đây là trạng thái thức tỉnh. Linh hồn đóng băng, tăm tối, biến thành màn đêm, biến thành đá trong sự sợ hãi và trong đau khổ trưởng thành và vỡ tan, để sự sống một lần nữa mở ra.
Sợ hãi và đau khổ mang hai ý nghĩa và có hai mặt; bởi vậy nó cũng có thể khóa lại cũng như có thể mở ra: nó có thể mang lại tự do cũng như mang đến một ngục tù tăm tối. Trong sự thức tỉnh linh hồn có thể thành vật thí nghiệm cho hai hướng: ánh sáng- sự quay lại trạng thái cổ, hoặc bóng tối-sự rơi xuống vật chất.
Nhưng trong thế giới nó đang sống, hoàn cảnh của nó dễ hơn: ánh sáng và bóng tối đứng riêng, âm và dương, như người Trung quốc hay nói đêm và ngày, mùa đông và mùa hè, sự tỉnh táo và sự đờ đẫn.
Sự sợ hãi và đau khổ khiến linh hồn con người từ những nhậy cảm cơ bản biết quyết định và tham dự. Con người không hiểu nỗi sợ hãi và sự đau khổ. Người ta tránh nó, mà không nhận ra rằng khi lẩn tránh thực ra họ tự khóa họ vào nỗi sợ hãi và sự tối tăm. Người nào sợ hãi và đau khổ, người đó cùng lúc gọi luôn cả sự minh bạch của trạng thái cổ và vương quốc tối tăm của sự quên lãng. Người nào bảo tồn sự nhậy cảm về nỗi sợ hãi và sự đau khổ trong bản thân, người đó đang đi về phía ánh sáng; người nào khóa nó lại trong bản thân, người đó cho phép lời mời chào của vật chất và bị khóa vào tăm tối. Cần phải sợ hãi và đau khổ: bằng sợ hãi và đau khổ con người gánh vác số phận của linh hồn và nhận lời mời gọi tiến lên phía trước.
Những hậu quả tâm lý của nỗi sợ hãi và sự đau khổ là vô tận: sự sợ hãi và sự đau khổ quyết định toàn bộ đời sống của con người sống trong thiên nhiên vật chất. Mọi biểu hiện của sự trốn tránh, cởi mở, chân thành, dối trá, sự đảm bảo, sự quyết định, sự dũng cảm hay hèn nhát đều từ sự sợ hãi và sự đau khổ mà ra, và không bao thắng được nó hoàn toàn.
Budapest 2012.03.09
Nguồn Triethoc.edu
(Còn nữa}