VTH – Những ngày cuối năm 2014 gặp lại nhà thơ Vương Cường ở Hà Nội, vẫn thấy nhiệt huyết “đổi mới văn chương” đến tận cùng của anh chưa bao giờ ngừng nghỉ. Xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết từ năm 2004 nhưng vẫn đầy tính thời sự của TS, nhà thơ Vương Cường:
>> Vài ý nghĩ mỏng – Vương Cường
THỰC TIỄN XÂY DỰNG NHÂN VẬT VÀ LỰA CHỌN NHÀ VĂN
(Bài viết từ tháng 5 – 2004, tháng 1-2015 gửi và báo VN in vào số 4 ra ngày 24-1-2015 trong mục DIỄN ĐÀN LÝ LUẬN PHÊ BÌNH VĂN HỌC lại không in ngày tháng viết. Thành ra có những số liệu không chính xác. Đó là lí do in lại ở đây để bạn đọc nếu quan tâm thấy “bình thường” về mặt số liệu)
Trong khi vì mục tiêu tồn tại và phát triển ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể, thực tiễn vẫn âm thầm xây dựng các nhân vật đồng thời lựa chọn các nhà văn. Nhà văn bằng ngôn ngữ của mình vừa phản ánh trung thực các nhân vật do thực tiễn xây dựng nên và thoả mãn nhu cầu thưởng thức của con người. Văn học nghệ thuật được sinh ra từ yêu cầu thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên, giặc giã và thưởng thức của con người trong họat động thực tiễn và đến lượt nó tác động lại thực tiễn, thúc đẩy thực tiễn phát triển theo quy luật khách quan.
Thực tiễn xây dựng nhân vật có thể mất nhiều hoặc ít thời gian. Điều này phụ thuộc vào sự vận động khách quan của các hình thái kinh tế- xã hội. Xu thế ngày càng rút ngắn, dường như thời gian ngày càng nhanh hơn, kiến thức ngày càng nén chặt hơn, việc xây dựng nhân vật vì thế cũng nhanh hơn và lựa chọn nhà văn cũng khắt khe hơn. Không nhất thiết thực tiễn phải xây dựng xong nhân vật, nhà văn vẫn có thể hoàn thiện. Trong các tác phẩm lớn của văn học thế giới, nhân vật vừa được thực tiễn vừa được nhà văn tài năng, đồng trục cùng hoàn thiện. Các nhân vật đó luôn luôn là hình ảnh của lịch sử thu nhỏ từng giai đoạn. Ở nước ta, từ năm 1930 đến nay là giai đoạn văn học phát triển nhất các nhân vật được ra đời gần như vậy.
Thực tiễn đã xây dựng các nhân vật chị Dậu, Chí Phèo mất bao nhiêu năm? Không ai nói chính xác được, nhưng chắc chắn có trực tiếp gần 80 năm, ngưòi nông dân Việt Nam phải sống trong một chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến. Sự tha hoá con người dưới hai tầng áp bức, bóc lột đó ,đến những năm 30 ( Thế kỷ XX ) thì thực tiễn xây dựng đến mức chị Dậu, Chí Phèo đã hiện hình phổ biến trong đời sống nghèo nàn của nông dân Việt Nam. Nhà văn Ngô Tất Tố và Nam Cao bằng tài năng đặc biệt của mình phát hiện và đã đưa chị Dậu, Chí Phèo từ trong đời sống thực tiễn bước vào trang sách. Thực tiễn đã lựa chọn nhà văn: những tác phẩm phản ánh trung thực đời sống đói khổ, rách rưới và tiếng kêu âm thầm đòi giải phóng của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8 năm 1945. Trên con đường xã hội hoá, Chí Phèo là hình ảnh tương lai của Chị Dậu, Chị Dậu là hình ảnh quá khứ của Chí Phèo mà thôi. Chị Dậu và Chí Phèo là các nhân vật văn học ấn tượng thế kỷ XX.
Tuy nhiên cả Ngô Tất Tố và Nam Cao mới nhìn thấy nhân vật cụ thể trên con đường tha hoá mà chưa thấy quá trình vận động của thực tiễn một cách tự giác. Do đó chị Dậu từ nhà cụ Cố ra thì trời tối đen như mực, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng phía trong có một Chí Phèo con. Nhưng thực tiễn đang tìm đường đi đến tương lai.O day giua nha van va thuc tien khong hoan toan thong nhat voi nhau.Mot so nha van it tin vao nhung nguoi nong dan co the lam viec doi doi.Thuc tien thi khong the. Mấy năm sau chính những người nông dân như chị Dậu đã vùng lên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cuộc cách mạng tháng Tám để giải phóng chính mình, họ đã là nhân vật mới. Không biết trong những người vác bó tre chạy” Kháng chiến có 3 giai đoạn …” trong Đôi mắt của Nam Cao, có chị Dậu và Chí Phèo chăng?
Giữa việc xây dựng nhân vật và lựa chọn nhà văn có một mối quan hệ. Có khi xây dựng được nhân vật mà thiếu nhà văn thể hiện. Chế Lan Viên từng viết: nếu không có truyện Kiều, thế kỷ đi tay không để viết về thế kỷ XVIII đó sao?Nhưng muốn phát hiện được nhân vật nhà văn phải có một thế giới quan và phương pháp khoa học nhìn nhận sự vận động của thực tiễn trong các quy luật. “Sự vận dộng chính là ở chỗ mâu thuẫn đó cứ luôn luôn nảy sinh ra và đồng thời tự giải quyết lấy”. Con người nhận thức được quá trình lịch sử tự nhiên, khách quan hoá quá trình đó có thể chủ động thúc đẩy lịch sử phát triển rút ngắn. Nhà văn có thể sáng tạo các nhân vật, tạo ra các tác phẩm có giá trị. Thiếu thế giới quan với phương pháp luận nhà văn không thể mô tả nhân vật mình trọn vẹn trên quỹ đạo phát triển xã hội và rất khó thu hút được độc giả. Ra xun – Gamzatov rất có lý khi ông nói: Đừng nói: ” Trao cho tôi đề tài!” Hãy nói trao cho tôi đôi mắt”.
Người đọc và nhà văn có cái chung là sự vận động của thực tiễn. Nhà văn mang đến cho người đọc hình ảnh thực tiễn thông qua các nhân vật. Người đọc đứng giữa một bên là thực tiễn, còn bên kia là ảnh của thực tiễn, tức là các nhân vật. Những tác phẩm phản ánh đúng thực tiễn đã nói hộ người đọc những tâm tư, nguyện vọng, những tình cảm yêu, ghét… Trên con đường hướng tới tương lai, nhà văn trở thành người bạn, người thầy quý mến của họ. Văn học nước ta mấy chục năm qua rất giỏi mô tả đời sống hiện thực nhưng đều hạn chế sự mô tả vận động của thực tiễn. Nhà văn viết bằng tâm huyết, tài năng bẩm sinh mà chưa đầy đủ một phương pháp nhìn xuyên suốt sự vận động của thực tiễn. Thời xa vắng của Lê Lựu là những trang viết trung thực, xúc động một thời con người bị tha hóa trong cơ chế bao cấp không có lối ra.
Việc loại bỏ nền sản xuất hàng hoá ra khỏi đời sống xã hội các nước XHCN từ năm 1927 thì sự phát triển ảo tưởng, duy ý chí bắt đầu từ đó. Xa rời quy luật khách quan, không tuân thủ quy luật khách quan là đặc điểm của giai đoạn này. Ở nước ta khi thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ phần nào cơ chế bao cấp bị che lấp những hạn chế, mục tiêu lớn nhất là giải phóng đất nước, tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đó là thời kỳ cả đất nước có chung nụ cười, có chung khuôn mặt ( ý thơ Chế Lan Viên )
.
Khi lịch sử bước sang giai đoạn khác, tất cả đều ngơ ngác trước một quán tính ít phù hợp thực tiễn mới. V.I.Lênin có nói đại ý kéo dài ưu điểm là khuyết điểm. Thực tiễn đã xây dựng nhân vật Giang Văn Sài trong bối cảnh đó. Ngòi bút tài năng của Lê Lựu đã mô tả chính xác, ấn tượng, hợp lý. Nhưng rồi trước sự bế tắc do nhận thức của con người, thực tiễn vẫn tự tìm đường đi của nó. Giang Văn Sài là tiếng kêu của lực lượng sản xuất đòi đổi mới để phát triển. Nhưng Lê Lựu đã không nghe thấy và do đó chừng mực nào ta vẫn thấy giữa ” Thời xa vắng” với “Tắt đèn ” ” Chí Phèo ” có điểm giống nhau. Khi Giang Văn Sài bỏ vợ con về quê dù làm chủ nhiệm HTX dùng mô hình VAC chăng nữa, thực tiễn không đòi giải pháp như thế mà đòi hỏi cao hơn một nền sản xuất hàng hóa, một nền sản xuất cho người khác để phát triển.
Từ năm 1986 đến nay quy luật phát triển kinh tế – xã hội nước ta chứng minh điều đó. Sau năm 1989, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường đã vào thực tế nước ta. Sự vận động và phát triển, do nó đem lại đã bắt đầu. Mâu thuẫn của sự phát triển ở nước ta trong giai đoạn này phải chăng là vượt qua nghèo đói để đi đến giàu có văn minh trong thực tế lạc hậu? Đọc “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của nhà văn Nguyễn Khắc Trường cũng gây ấn tượng tốt, nhưng mâu thuẫn trong quá trình đi lên của nông thôn Bắc bộ có phải là mâu thuẫn dòng họ? mâu thuẫn đó có phải là mâu thuẫn cơ bản? Mặc dù, là cuốn sách hay, nhưng phương pháp lai có gi rát cũ, chủ quan,phảng phất những tư duy như đã trình bày trên. Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường sớm muộn cũng giải phóng những quan hệ kinh tế không phù hợp trên con đường đi của nó.
Xây dựng nền kinh tế thị trường, phù hợp quy luật lịch sử để giải quyết vấn đề lạc hậu, nghèo đói tiến tới văn minh trong điều kiện toàn cầu hoá, quốc tế hoá mà mỗi bước đi của nó đều tạo ra nhiều thời cơ và lắm thách thức. Thậm chí thách thức còn nằm trong mỗi thời cơ. Nước ta đã đi trên con đường ấy gần 20 năm, bộ mặt xã hội có nhiều thay đổi bất ngờ. Nhưng sự phát triển nhanh của thế giới có tính liên hoàn, dường như đã làm cho tất cả chúng ta đều ít nhiều lạc hậu. Chúng ta từng quen, mất mùa nông dân rất khổ, nhưng bây giờ lại chứng kiến được mùa có khi nông dân còn khổ hơn. Ấy là chưa nói chúng ta đang sống cận kề – một thế giới nghiêng về tri thức. Cơ cấu giá trị trong đơn vị hàng hoá của nhiều nước đã chiếm 70-80% giá trị lao động chất xám, giá trị lao động sống chỉ chiếm 20-30%. Sự co kéo giữa giàu và nghèo không nằm trong một quốc gia. Cuộc chiến tranh kinh tế mà trước hết là nhân lực và công nghệ. Công nghệ thế giới đã thay đổi thế hệ sau 1-2 năm. Công nghệ thông tin thay đổi theo tháng chứ không phải theo năm. Công nghệ nước ta lạc hậu lại nằm trong nghịch lý. Công nghệ tiên tiến thì loại bỏ người lao động ra khỏi dây chuyền nhưng ổn định chính trị – xã hội lại là điều kiện tiên quyết để phát triển. Nhân lực đào tạo ít đáp ứng thực tiễn kinh tế thị trường. Giáo dục – Đào tạo còn trong cơn mê chạy theo thành tích. Khoa học chưa trực tiếp với nền sản xuất xã hội.
Khác với thời chị Dậu, Chí Phèo, Giang Văn Sài, yếu tố thời đại đã trực tiếp cùng thực tiễn nước ta xây dựng nhân vật. Nhân vật được tạo ra trong cuộc chiến tranh kinh tế của thời đại mà giá rẻ là những cỗ trọng pháo có thể bắn thủng bất kỳ bức trường thành nào. Nhân vật của chúng ta có thể hôm qua còn cấy gặt, hôm nay đã là thị dân. Sự chuyển hóa này mang tính cơ học, không đủ thời gian cho sự biến đổi. Nhân vật chúng ta nhiều kiến thức mà ít được thực tiễn thừa nhận, Nhiều GS,TS không vi thế mà lao động chất xám tăng lên . Những công nhân bậc cao trong cơ chế cũ bỗng thừa ra trước những công nghệ mới. Nhân vật ngơ ngác trước các hàng rào thuế quan bị xoá bỏ mà hàng rào cục bộ lại mọc lên nhiều hơn. Các yếu tố văn hóa truyền thống cần cho sự phát triển cũng có nguy cơ mặt trái kinh tế thị trường xóa bỏ. Dường như các nhân vật của chúng ta dưới tác động của kinh tế thị trường nhiều màu sắc thời đại vừa thoáng hiện lại thoáng mất, rất khó định hình. Sự vật chỉ đứng yên tạm thời chốc lát lại biến hóa ngay.Tình hình văn học nghệ thuật trong những năm đổi mới cũng cho thấy điều đó. Nhiều tác phẩm được giải lại viết về quá khứ. Viết về thực tại vẫn sơ lược, dấu ấn thời đại, thực tiễn đất nước vọng vào tác phẩm yếu ớt. Quỹ đạo văn học Nghệ thuật chưa thể hiện được dáng dấp quỹ đạo phát triển nói chung. Người đọc tìm về văn học nhưng ít được chia sẻ. Trước đây trong cơ chế bao cấp ngược về lịch sử nhà văn viết dễ hơn, thậm chí nhà văn đù sức đi trước để dắt dẫn dư luận, mở đường phát triển. Nhưng ngày nay, dường như khả năng đó bị chững lại. Tôi có nghe nhà văn Chu Lai nói đại ý là trước đây một cuốn tiểu thuyết anh viết có thể 6 tháng, riêng “Cuộc đời dài lắm” mất 2 năm vì anh cần hiểu cổ phần hóa doanh nghiệp, thị trường chứng khoán… Trong muôn vàn quan hệ tạo lập, góp phần xây dựng nhân vật của nhà văn có những khái niệm, những khái niệm được rút ra từ thực tế lại tác động vào thực tế vào sự hình thành các nhân vật mới. Tác động của những quan hệ kinh tế – xã hội – văn hóa mới vào nhân vật, qua hàng trăm nẻo đường. Thực tiễn thách thức chúng ta trên mọi phương diện. Viết văn trong điều kiện hiện nay mới khó làm sao. Nhà văn còn có cái nhìn của nhà văn hoá, của nhà triet hoc. Nền kinh tế thị trường dị ứng với những kinh nghiệm. Nó ít can đảm chờ đợi kinh nghiệm, nó buộc con người phải nhận thức tự giác. Vì vậy mà các nhân vật do thực tiễn đang xây dựng chưa ro hinh hai, đòi hỏi nhà văn tài năng mới thể hiện được . Tôi có một vài lần đem chuyên trên nói với vài nhà văn có thời là chủ lực, anh ta thừa nhận, giờ viết khó qua. Tuy vậy, thực tiễn mới sẽ lựa chọn được nhà văn mới cho mình
Tư duy của nhà triết hoc, thẩm mỹ của nhà văn hoá, tài năng thiên bẩm và sự tu luyện hoà quyện lại, phải chăng thực tiễn đang lựa chọn như vậy đối với các nhà văn? Có khi con người không giúp, góp cùng thực tiễn trên con đường đẩy nhanh tới tương lai. Nhưng thực tiễn cũng tự mình tìm được hướng tới tương lai. Trên con đường đó, thực tiễn không quên xây dựng nhân vật và lựa chọn các nhà văn. Hy vọng các nhân vật được các nhà văn phát hiện và các nhà văn được thực tiễn lựa chọn.
7-5-2004
VƯƠNG CƯỜNG