Cấu trúc nhịp thơ và quan hệ của nó với đổi mới thơ(1) – Trần Thiện Khanh

VTH – Làm thơ theo bản năng và bình luận theo cảm tính là bệnh nan y của các “nhà thơ” đại trà. Hiểu biết mơ hồ về vần điệu và cấu trúc nhịp và nhạc thơ, các nhà thơ ấy có thể “phang” không thương tiếc bất cứ một bài thơ nào viết không theo lối mòn: thuận tai, thuận mắt và hiểu theo kiểu mặt phẳng đơn chiều. Một bài viết trao đổi về ngôn ngữ thơ của nhà nghiên cứu Trần Thiện Khanh rất đáng để những người làm thơ quan tâm:

1. Cấu trúc bên trong và cấu trúc bên ngoài của nhịp

Tại sao ta xếp bài thơ này vào thể lục bát, song thất lục bát, còn bài thơ kia lại được đặt vào thể thất ngôn, ngũ ngôn…? Sở dĩ, chúng ta nhận diện được hình thức bên ngoài của từng lối thơ ấy, vì ta nhìn thấy qui luật ngắt nhịp, ngắt dòng của chúng khác nhau. Tính có nhịp điệu, và sự ngắt nhịp liên tục, từ lâu đã trở thành một yếu tố phân biệt thơ với văn xuôi, bài thơ này khác với bài thơ kia. Nói cách khác, tính thơ nằm ở tính có nhịp điệu và sự hiệp vần của nó.

2

Tôi dùng khái niệm nhịp thơ để chỉ một đơn vị ngôn ngữ nào đó được khu biệt về qui tắc tổ chức âm thanh, từ loại, ngữ pháp so với các đơn vị ngôn ngữ khác. Nhịp thơ trùng với khung đoạn ngừng nghỉ của lời nói nghệ thuật. Nhịp thơ thay đổi tạo nên cảm giác lời thơ vận động. Nhịp thơ là nhân tố năng động tạo dựng hệ thống lời thơ ở cả phương diện ngữ nghĩa và âm thanh, chứ không phải yếu tố tĩnh tại. Nhịp thơ vừa biểu cảm, thông tin vừa tạo hình.

Thuật ngữ khuôn nhịp, hay cấu trúc nhịp điệu giúp ta nhận diện: sự lặp lại đều đặn theo chu kì của những bước nhịp, các âm thanh mạnh yếu. Các khuôn âm luật ấy góp phần tạo ra tính nhạc cho bài thơ. Mỗi khuôn nhịp có trường độ bước nhịp nhất định. Ở mỗi bước nhịp, số âm tiết hợp thành tiết tấu câu thơ luôn được hạn định. Mỗi bước thơ có độ dài nhất định và tương đối trọn vẹn về nghĩa. Chúng có thể độc lập về ngữ pháp. Mỗi bước thơ có một tiêu điểm ngữ nghĩa, thể hiện ở sự nhấn giọng. Trường độ bước nhịp hài hoà với tiết tấu thơ. Ðộ dài của các bước thơ không đều nhau. Sự không đều nhau này tạo thành âm vang ngôn từ.

Từ lâu, ta hiểu nhịp thơ chỉ là yếu tố bên ngoài, một yếu tố của hình thức cụ thể cảm tính. Nay chúng tôi hiểu thêm, nhịp thơ là một yếu tố bên trong tạo hình thức thơ, hình thức câu thơ. Sự sắp đặt các khổ thơ luôn luôn biểu hiện tương quan giữa các nhịp điệu. Tương quan giữa các nhịp trong một câu thơ, dòng thơ… tạo nên tính hệ thống, tính nội dung cho cấu trúc nhịp điệp của toàn bộ thi phẩm. Nhịp điệu nằm bên trong bản thân kiến trúc ngôn từ và qui định kiểu kiến trúc ấy. Muốn khám phá cấu trúc nhịp thơ, độc giả còn phải đi qua cái khoảng không vô hình do các bước thơ tạo ra. Mỗi lần đi qua các bước thơ độc giả sẽ có những cảm nhận, cảm giác khác nhau về tính thơ, về nội dung thông tin, biểu cảm tiềm tàng ở phát ngôn thơ. Ði từ bước thơ này đến bước thơ kia phải mất một khoảng thời gian nhất định và ngắt nhịp không hợp lí câu thơ sẽ vô nghĩa.

Nhịp điệu có cấu trúc nhịp điệu bên trong và cấu trúc bên ngoài. Cấu trúc bên ngoài biểu hiện ở cách trình bày nhịp câu thơ, nhịp khổ thơ, ở việc sử dụng dấu câu của tác giả và khuôn nhịp chung của thể loại. Cấu trúc bên trong một mặt ứng với nguyên tắc tổ chức nhịp điệu của từng chủ thể, mặt khác nó do nhịp sống, tốc độ sống, cách sống của đối tượng gợi ra. Cấu trúc bên trong thể hiện tương quan nội dung mang hình thức nằm bên trong cấu trúc bên ngoài của nhịp điệu. Ðộc giả không thể đếm được nhịp bên trong của bài thơ, của đối tượng miêu tả, mà chỉ có thể cảm được, nghe được, tưởng tượng thấy nó.

Ðể hiểu rõ về cấu trúc bên trong và cấu trúc bên ngoài của nhịp, dưới đây chúng ta thử tìm hiểu một đoạn thơ của Hoài Vũ:

Anh phải về thôi, xa em thôi!

Ngoài kia phiên chợ vãn lâu rồi

Giọt nắng cuối ngày rơi xuống tóc

Mà lời từ biệt chẳng lên môi.

Anh phải về thôi, xa em thôi!

Xa vườn xưa, đôi chiền chiện tha mồi

Hoa khế rụng tím hầm ngầm bí mật

Ðể mãi lòng ta xao xuyến bồi hồi…

(Hoàng hôn lặng lẽ – Hoài Vũ)

Câu thơ mở đầu có cấu trúc hai nhịp. Cấu trúc hai nhịp ở đây phản ánh một cảm thức chia li khá rõ. Nhân vật trữ tình cảm thấy sự chia li đang đến gần và nhất định sẽ xảy ra. Do đó, anh ta bộc bạch tâm thế hiện thời của mình để nhân vật em hiểu mà chia sẻ. Tâm thế ấy trước tiên được thể hiện bằng một giọng điệu trầm lắng, thứ nữa biểu hiện qua sự hoà thanh.

Sự hoà thanh ở nhịp thứ nhất phản ánh rõ rệt cơ chế xung động nội tâm. Cơ chế này được cụ thể hoá thành hiệu ứng gấp khúc âm sắc. Sự hoà thanh ở nhịp thứ hai cũng chịu sự chi phối của xung động tâm trạng, song về cơ bản, tần số nảy sinh và biểu lộ tâm trạng của nó giảm dần, rồi thấp hơn mức bình thường ở hư từ “thôi”. Nói khác đi, đến từ “thôi” nhân vật anh không thể nói rõ hơn cảm xúc của mình. Tôi quan niệm sự khác biệt về bước sóng tâm trạng và tần số của nó theo cách mà chúng tôi vừa chỉ ra, đã làm thành nguyên nhân sâu xa tổ chức nên nhịp đôi cho câu thơ thứ nhất.

Xin nói rõ hơn về hiện tượng tổ chức nhịp đôi của câu thơ mở đầu. Tôi xem cấu trúc nhịp đôi mà ta vừa quan sát được, có quan hệ biện chứng với hai bước sóng tâm trạng. Hai bước sóng ấy chuyển hoá thành hai sự chuyển động: chuyển động tâm trạng và chuyển động giọng điệu. Sự chuyển động của tình cảm dễ nhận ra hơn cả. Chẳng hạn, ở về thứ nhất, nhân vật trữ tình bộc bạch cái ý hướng buộc “phải xa cách” để thăm dò nhân vật em. Ở vế thứ hai, anh ta tiếp tục nhắc lại điều ấy với hai mục đích: thứ nhất- bộc lộ tâm trạng luyến nhớ và khát khao muốn ở lại; thứ hai- khẳng định sự thực chia xa đang đến rất gần. Cùng với sự chuyển động của tình cảm, ta quan sát được sự chuyển động của giọng điệu. Bề ngoài, nhịp thơ đầu thể hiện hành động dứt khoát, song bên trong chứa đựng nỗi đau chia lìa. Nhịp thứ hai có âm hưởng ngậm ngùi, song lại gần với một lời nhắc nhở khéo léo. Nhắc nhớ để chờ đợi điều gì đó thường xảy ra. Ðến đây có thể kết luận: sự phức hợp của tâm trạng tạo nên sức phức hợp của giọng điệu. Toàn bộ sự phức hợp đó, trên một mức độ đáng kể chuyển hoá thành cơ chế cấu trúc nhịp thơ.

Câu thơ đầu kết thúc bằng vần “ôi”. Câu thơ thứ hai và câu thơ thứ tư lặp lại nguyên vẹn khuôn vần đó để tạo nên âm vang ngôn từ, âm vang cảm xúc. Nếu câu thơ thứ hai, câu thơ thứ tư không gieo vần “ôi” hoặc gieo vần, nhưng không hoàn toàn trùng hợp với khuôn vần đó, chắc chắn âm điệu câu thơ sẽ khác. Sự “khác” này sẽ làm giảm đi cái ấn tượng ban đầu của chúng ta về hình thức của phát ngôn ta mà ta vừa nghe thấy trước đó. Chẳng hạn tính nhạc, tính thơ của nó sẽ bị giảm sút. Vì rằng, tính thơ, tính nhạc của phát ngôn không phải lúc nào cũng xuất hiện theo cơ chế nội sinh, mà ta thường thấy nó hiện ra khi có sự tương tác, chuyển hoá uyển chuyển, nhịp nhàng giữa các hệ thống ngôn từ.

Thật vậy, câu thơ “Anh phải về thôi, xa em thôi” tách thảnh hai nhịp để đánh dấu giọng và điệp vần “ôi” được dùng để củng cố tính nhạc cho nó. Ta nói hệ thống ngôn từ của câu thơ trong sự vận động đặc thù của nó đã tạo nên tính nhạc. Tính nhạc này trở nên nổi bật hơn khi nó tương tác, chuyển hoá sang hệ thống vần nhịp của các câu thơ tiếp theo. Ðối với trường hợp sau này, tôi nói tính nhạc hình thành theo cơ chế ngoại sinh.

Tôi quan sát thấy có hai nguyên tắc tạo nhạc cho thơ. a) nguyên tắc 1, bao gồm: lặp vần để truyền âm; lặp thanh điệu để tạo âm hưởng; lặp cấu trúc câu để tạo nên một giai điệu nào đó; b) nguyên tắc 2, đối lập hoặc bổ sung cho nguyên tắc 1 bằng cách thường xuyên tạo ra sự vênh lệch, trật khớp giữa các hệ thống ngôn từ. Nếu lặp để tạo các điểm nhấn tu từ, thì vênh lệch, trật khớp tạo nên sự đa dạng về ngữ điệu. Tôi gọi thơ nhạc – tất cả những bài thơ chú trọng đến vần, nhịp.

2. Nhạc âm của ngôn ngữ thơ

Theo các nhà nghiên cứu vật lí, trong các loại âm mà tai chúng ta cảm thụ được, thì tiếng hát, tiếng đàn có một tần số hoàn toàn xác định, tức đối với những loại âm đó, chúng ta có thể đo được biên độ và tần số dao động của nó. Và để phân biệt nó với loại tạp âm chẳng hạn tiếng bước chân, tiếng máy nổ người ta gọi nó bằng thuật ngữ “nhạc âm”. Văn bản thơ có nhạc âm, bởi vì chúng ta có thể xác định được tương đối trường độ, cao độ của các âm tiết, có thể cảm được nhạc tính của vần, của sự lặp lại các yếu tố ngôn ngữ. Hiện tượng này biểu hiện ít nhiều ở thơ cổ điển. Vì thơ cổ điển qui định cách thức tổ chức ngữ âm, tổ chức thanh điệu và vần điệu cố định cho những tiếng chẵn. Và bằng cách ấy, chúng đã tạo ra một kiểu nhạc, một kiểu âm riêng cho thể loại.

Vả chăng thì các yếu tố – chẳng hạn độ cao, độ dài và độ mạnh của âm thanh ngôn ngữ ngoài tính chất vật lí, còn chứa đựng yếu tố tâm lí. Vì ngôn ngữ thơ ngoài chức năng giao tiếp, biểu hiện còn có chức năng tư duy. Nói cách khác, sự sản sinh ra ngôn ngữ thơ bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với quá trình tư duy, với sự suy tưởng và biên độ dao động của tình cảm con người. Cổ nhân nói “thi trung hữu nhạc” thì nên hiểu thêm nhạc âm quan hệ với nhạc lòng.

Nhạc âm của ngôn ngữ thơ vừa do tác giả sáng tạo nên vừa do độc giả sử dụng và phát hiện. Kết quả sáng tạo của tác giả được thể hiện bằng văn bản ngôn từ, ở đó mỗi câu thơ thường có cách thức tổ chức khác nhau. Nhưng giá trị thẩm mỹ của sự hiệp vần, cùng ý nghĩa của các khuôn nhịp đến đâu phụ thuộc vào “ngưỡng nghe,” ngưỡng cảm”- ngưỡng tiếp nhận của độc giả. Ðộc giả tự nghe, tự cảm, tự phát hiện ra ý nghĩa tiềm tại ở cấu trúc nhịp điệu và tổ chức ngữ âm của văn bản ngôn từ. Câu thơ nhiều thanh bằng, nhạc âm sẽ trầm. Dòng thơ toàn thanh trắc nhạc âm của nó sẽ cao và vang. Dòng thơ ngắn sẽ có âm hưởng khác với dòng thơ dài; sự phối hợp giữa chúng sẽ để lại một kiểu âm khác với cấu trúc câu thơ đều đặn. Tất cả điều này được giải thích từ tổ chức âm thanh, tổ chức nhạc âm đặc trưng của nó.

Mỗi câu thơ có một miền chúng ta nghe được, có một vùng chúng ta chỉ cảm thấy. Miền chúng ta nghe được do sự cộng hưởng của thanh điệu, vần điệu tạo thành. Vùng chúng ta chỉ cảm thấy thuộc loại “sóng siêu âm” do sự giao thoa giữa các hệ thống ngôn từ để lại. Nhạc âm được lĩnh hội bằng kinh nghiệm, bằng thính giác. “Sóng siêu âm” của ngôn từ được lĩnh hội bằng trực giác, bằng sự đồng cảm. Vì thế không phải bao giờ chúng ta cũng cắt nghĩa được rạch ròi cái âm hưởng nào đã cuốn hút ta, mê hoặc ta. Hiện tượng này được chứng minh rõ hơn – khi lần đầu tiên ta tiếp xúc với bài thơ nào đó – dù chưa hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng ta vẫn cảm thấy nó rất hay, cái hay đầu tiên ta cảm thấy rõ rệt ở nhạc âm của nó. Tôi cho rằng mỗi bài thơ có một loại nhạc âm. Nhạc âm đó có thể phù hợp với ngưỡng nghe của ta, sự chờ đợi của ta, niềm ham thích của ta. Khi chúng ta vui, chúng ta sẽ nghe thấy nhạc âm của bài thơ khác với lúc chúng ta buồn, một người thích kiểu thơ giàu tính nhạc sẽ không mấy mặn mà trước lối thơ có năng lượng nhạc âm thấp.

Trở lại bài thơ “Ðêm sông Cầu” của Ðỗ Trung Lai. Nhạc âm của bài này khác độc đáo.

Anh qua sông Hồng,/ sông Ðuống

Mùa mưa/ bọt nước/ đỏ ngầu

Không biết/ ở nơi em ở

Êm êm /một khúc sông Cầu

Tiếng một con tôm búng nước

Vó bè ai cất sau lưng

Sao trời lọt qua mắt lưới

Rơi đầy xuống cả mặt sông.

(Ðêm sông Cầu- Ðỗ Trung Lai)

Từ “sông” được lặp lại hai lần hội với hai tiếng “êm êm” tạo nên một kiểu âm điệu bằng phẳng. Chữ “Hồng” chữ “Ðuống” gần khuôn vần với nhau, tạo nên một bước đệm âm lượng. Nói chữ “Hồng” chữ “Ðuống” tạo ra một bước đệm âm lượng bởi vì, xét theo phương truyền âm, chúng chuẩn bị điều kiện đủ cho sự xuất hiện của ba âm cao ở câu tiếp theo. Chữ “đỏ” câu trước hoà thanh với hai chữ “ở” câu tiếp theo để duy trì, cộng hưởng một âm sắc. Chữ “ngầu” hiệp vần với chữ “Cầu” theo lối cách vận. Thêm nữa, độ dài các bước nhịp không đều nhau, cấu trúc nhịp giữa các câu thơ không hoàn toàn đồng nhất. Tất cả điều đó tạo ra sự phong phú của âm thanh ngôn từ. Khổ thơ đầu bài “Ðêm sông Cầu” có nhạc âm trầm thấp, đều đặn, và nhẹ nhàng. Ðiều này, theo tôi, có quan hệ với sự phân bố dày đặc của hệ thống thanh bằng và sự xuất hiện phổ biến của khuôn nhịp chẵn.

TRẦN THIỆN KHANH

(Còn tiếp)
Nguồn phebinhvanhoc.com

Bình Luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close Menu