Tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 – Một cách nhìn (2)

>> Tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 – Một cách nhìn (1)

4. Bên cạnh những tiểu thuyết viết theo thi pháp truyền thống là những tác phẩm viết theo thi pháp hiện đại: Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Thoạt kỳ thuỷ, Ngồi (Nguyễn Bình Phương), Chinatown, Paris 11 tháng Tám, T. mất tích (Thuận), Người sông mê (Châu Diên), Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), Giữa vòng vây trần gian, Giữa dòng chảy lạc (Nguyễn Danh Lam), Cơn giông (Lê Văn Thảo), Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), Kín, Nháp (Nguyễn Đình Tú), 3.3.3.9 – những mảnh hồn trần (Đặng Thân)… Ấn tượng rõ rệt nhất khi đọc các tiểu thuyết này là sự khác lạ, là sự “gây hấn” với truyền thống. Dường như nhà văn không phải đang tái hiện bức tranh hiện thực mà đang trình bày cách thức họ làm ra các kiểu kết cấu nghệ thuật như thế nào.

Với những kiểu kết cấu thể hiện tinh thần chối bỏ truyền thống, vượt qua mô thức kết cấu quen thuộc, tiểu thuyết sau 1986 đã xác lập mối quan hệ mới giữa văn chương với hiện thực. Các tác phẩm kể trên đã mở ra những thử nghiệm kiếm tìm hình thức mới cho tiểu thuyết khá phong phú và đang còn tiếp diễn. Quan niệm truyền thống về tiểu thuyết đang mờ dần đi. Với ý thức cách tân quyết liệt và mạnh mẽ, các cây bút kể trên đã góp phần xoá bỏ khoảng cách tư duy nghệ thuật giữa văn học Việt Nam và những nền văn học tiên tiến của nhân loại. Bao trùm trong các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Danh Lam, Thuận… là một thế giới vô hồn, một thế giới “mờ”, khó tìm thấy một gương mặt chính thống. Người đọc thấy ở các tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy, Ngồi, Giữa vòng vây trần gian, T. mất tích, Kín, Nháp… sự “hồ nghi tồn tại như một loại hình tâm trạng làm nên cảm quan của thời đại mới. Các nhà nghiên cứu gọi đó là dấu hiệu cảm quan hậu hiện đại” (Lã Nguyên).
Các tiểu thuyết theo hướng hiện đại đã tạo nên cảm giác về sự trôi dạt của thân phận con người. Các thủ pháp nghệ thuật như đồng hiện, kỹ thuật dòng ý thức, độc thoại nội tâm, môtíp giấc mơ, ký ức, vọng niệm đã tỏ ra có hiệu lực bộc lộ những miền sâu kín và bí ẩn của con người. Ở đây xu hướng tự do, phóng khoáng trong các kiểu diễn ngôn, sự co giãn, mềm dẻo của kết cấu, sự không liên tục của ý tưởng, chối bỏ sự trau chuốt mang tính tu từ đã góp phần tạo nên giọng điệu mới với các sắc thái thẩm mỹ đa dạng. Tất cả đã nói lên một cái gì đó về một tâm thức đã xuất hiện nhưng không dễ phát hiện trong đời sống hôm nay: tâm thức hậu hiện đại.

Bằng những “âu lo”, “bất ổn” trên bề mặt giọng điệu, nhà tiểu thuyết hướng độc giả đến những “bất ổn”, “lo âu” ở đáy sâu đời sống hiện thực, khiến họ phải trăn trở nhiều hơn, nghĩ ngợi nhiều hơn trước những gì được viết ra. Ở đó hàm chứa một thái độ “kép”, mâu thuẫn và phức hợp; cười cợt, giễu nhại cái cũ song cũng chưa tạo được một niềm tin bền chắc vào cái mới. Đó là thái độ tìm kiếm hơn là khẳng định. Từ đó, giọng điệu ngả sang phía cật vấn, hoài nghi như một hệ quả tất yếu: các nhân vật thường xuyên đặt câu hỏi với chính mình, với những nhân vật khác, với cả chính người viết và người đọc. Trong các tác phẩm Tấm ván phóng dao, Thoạt kỳ thủy, T. mất tích, Giữa vòng vây trần gian… hầu như đều là những câu hỏi còn bỏ ngỏ về thân phận và cuộc đời con người, là những cuộc tìm kiếm bản ngã và cá tính, hạnh phúc và bình yên, niềm tin và lẽ sống còn dở dang, đầy bất an, chưa đến hồi kết thúc.

5. Sự nhoè mờ ranh giới thể loại, sự xâm nhập của các thể loại khác vào cấu trúc nội tại của tiểu thuyết cũng là một nét nổi bật đáng ghi nhận của tiểu thuyết hôm nay. Như Bakhtin đã nhận định: “Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó”. Khả năng phối kết, thu hút các thể loại khác khiến cho tiểu thuyết luôn có xu hướng đổi mới cả về khả năng lẫn nhu cầu khai thác tiềm năng của chính nó. Từ trước đến nay, dung lượng của tiểu thuyết vẫn được coi là một trong những tiêu chí cơ bản để phân biệt nó với các loại hình văn xuôi như truyện ngắn, truyện vừa… Nhưng có một hiện tượng mà người đọc dễ nhận ra là có khá nhiều tiểu thuyết ngắn xuất hiện ở những năm đầu thế kỷ XXI. Phần lớn các tiểu thuyết đã thu gọn cái “thân xác bề thế” của nó.
Từ phía người sáng tác, Tạ Duy Anh, tác giả của các tiểu thuyết ngắn đã nhận định: “Xu hướng ngắn, thu hẹp bề ngang, vừa khoan sâu chiều dọc, đa thanh hóa sự đối thoại, nhiều vỉa ý nghĩa, bi kịch thời đại được dồn nén trong một cuộc đời bình thường, không áp đặt chân lý là dễ thấy. Tiểu thuyết ít mô tả thế giới hơn là tạo ra một thế giới theo cách của nó. Ở con người có thể chiêm ngưỡng mình từ nhiều chiều hơn là chỉ thấy cái bóng của mình đổ dài xuống lịch sử”. Mặt khác sự thu hẹp dung lượng của tiểu thuyết còn phụ thuộc vào sự tương ứng giữa hình thức nghệ thuật với tinh thần của cái hiện thực mà nó phản ánh. Đó là cái hiện thực rời rạc, phân mảnh mà các tiểu thuyết gia hôm nay tìm thấy nơi ẩn náu phù hợp với các mảnh tự sự rời rạc tựa như các truyện ngắn riêng rẽ được lắp ghép thành một sinh thể tiểu thuyết. Trong đó, mảnh này suy tư, liên tưởng về mảnh kia, đoạn này chồng chéo lên đoạn kia tạo nên sự pha trộn, xâm nhập của truyện ngắn kịch, tiểu luận triết học, thơ ca, báo chí, nhật ký, huyền thoại vào tiểu thuyết, tạo nên cấu trúc phức hợp. Ở đây vấn đề “thay đổi dung lượng” cũng liên quan mật thiết với vấn đề xâm nhập của các thể loại khác vào cấu trúc nghệ thuật của tiểu thuyết.
Trong các tiểu thuyết Tấm ván phóng dao, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thủy, người đọc nhận ra chất thơ thẩm thấu vào cơ cấu bên trong của tác phẩm. Sự xâm nhập của tiểu luận triết học trong tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái khiến tác phẩm mang một giọng điệu trầm tư, giàu suy ngẫm, kích thích cảm hứng đồng liên tưởng, sáng tạo của chủ thể tiếp nhận.

6. Sự làm mới cách thức thể hiện tiểu thuyết với hiện tượng liên văn bản xuất hiện một cách thường xuyên ở nhiều cấp độ và dạng thức khác nhau tạo nên kiểu kết cấu truyện lồng truyện. Hình thức văn bản trong văn bản góp phần tạo nên những tiếng nói khác nhau, mở rộng trường nhìn, đa dạng hóa cấu trúc của tiểu thuyết. Với hình thức này, tác phẩm sẽ tạo nên sự liên thông giữa thế giới thực và thế giới ảo (Đi tìm nhân vật, Thoạt kỳ thủy…) và nhân vật trong tiểu thuyết sẽ “được sống lập thể” ở nhiều thế giới khác nhau, nhập nhiều vai khác nhau, các giới hạn không gian, thời gian do vậy được mở ra đến vô hạn (Paris 11 tháng Tám, Và khi tro bụi, Đức Phật, nàng Savitri và tôi…).
Từ sau thời kỳ đổi mới và nhất là trong những năm gần đây, đổi mới tư duy tiểu thuyết ở các nhà văn đã dẫn đến những cách tân quan trọng trên cả phương diện nội dung và hình thức, đặc biệt ở hình thức, ở quan niệm về chất liệu, làm mới ngôn ngữ tiểu thuyết hướng tới tính hiện đại, thậm chí hậu hiện đại của văn học thế giới. Tác động của các tiểu thuyết hướng tới sự cách tân triệt để đã ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề tiếp nhận văn học của độc giả đương đại. Với người đọc nói chung, các tiểu thuyết viết theo lối mới, đặc biệt những tác phẩm có sự kết hợp hiệu quả của cách thức diễn đạt với nội dung mang tính nhân văn sâu sắc đã tạo ra một “trào lưu văn hóa đọc” khá sôi nổi trong công chúng (Giàn thiêu – Võ Thị Hảo, Mẫu thượng ngàn – Nguyễn Xuân Khánh, Mười lẻ một đêm – Hồ Anh Thái, Tấm ván phóng dao – Mạc Can, Dưới chín tầng trời – Dương Hướng, Thượng đế thì cười – Nguyễn Khải). Chính điều này sẽ góp phần nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và “tầm đón đợi mới” với thể loại của người đọc, rút ngắn khoảng cách đẳng cấp của người đọc. Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra ở đây là không phải tiểu thuyết cách tân nào cũng có độc giả. Trên thực tế, đã có không ít tác phẩm “gây sốc” với “tầm đón đợi truyền thống” của người đọc. Do cái mới không dễ được chấp nhận, do một số thể nghiệm còn rơi vào cực đoan, người đọc như lạc vào mê cung của các con chữ.
Có thể nói bên cạnh những thành tựu mà tiểu thuyết đạt được cũng đồng thời có những giới hạn của nó ở cả tiểu thuyết theo hướng cách tân và theo thi pháp truyền thống. Ở tiểu thuyết cách tân nhìn chung có sự hấp dẫn vì yếu tố lạ và mới, đặc biệt là về kỹ thuật nhưng đọc không dễ. Ở tiểu thuyết theo hướng truyền thống có những tiểu thuyết hay, được độc giả ưa thích như Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn… nhưng cũng không thể không nói đến những cuốn còn nghiêng về tái hiện hiện thực theo hướng “nệ thực”, ở một góc độ nào đó đã “bật đèn đỏ”, không tạo điều kiện cho các nhà văn có thể phát huy sức mạnh của trí tưởng tượng, của hư cấu nghệ thuật, đem đến cái nhìn nhiều chiều kích của không gian, thời gian về lịch sử và con người. Vấn đề của tiểu thuyết không chỉ là kỹ thuật, cái mới, không chỉ là tái hiện hiện thực một cách sinh động và chân thật. Tiểu thuyết vẫn cần những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, phù hợp và đáp ứng tầm đón đợi của người đọc đương đại

BÍCH THU
Nguồn: VNQĐ
Theo Vanchuong+ 

3 comments

  1. 4. Bên cạnh những tiểu thuyết viết theo thi pháp truyền thống là những tác phẩm viết theo thi pháp hiện đại: Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Thoạt kỳ thuỷ, Ngồi (Nguyễn Bình Phương), Chinatown, Paris 11 tháng Tám, T. mất tích (Thuận), Người sông mê (Châu Diên), Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), Giữa vòng vây trần gian, Giữa dòng chảy lạc (Nguyễn Danh Lam), Cơn giông (Lê Văn Thảo), Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), Kín, Nháp (Nguyễn Đình Tú), 3.3.3.9 – những mảnh hồn trần (Đặng Thân)… Ấn tượng rõ rệt nhất khi đọc các tiểu thuyết này là sự khác lạ, là sự “gây hấn” với truyền thống. Dường như nhà văn không phải đang tái hiện bức tranh hiện thực mà đang trình bày cách thức họ làm ra các kiểu kết cấu nghệ thuật như thế nào.
    BÍCH THU
    Nguồn: VNQĐ
    Theo Vanchuong+
    _____________
    Cần phải hiểu chữ “truyền thống” ở đây tác giả sử dụng là theo nghĩa hẹp trong phạm vi tiểu thuyết Việt Nam ở thời kỳ mà nội dung của nó y như nhau, chỉ có cách sử dụng ngôn từ hơi khác đi một chút xíu mà thôi.
    Còn thì mỗi tác phẩm có giá trị dù viết theo kiểu nào nó cũng đem đến cho người đọc một thông địệp, một chân trời tươi sáng rộng mở, khiến người đọc cảm thấy mình đã khác trước sau khi xem tác phẩm ấy.

  2. Khi đọc một tiểu thuyết hay, người ta chẳng cần biết nó được viết dưới thể loại nào. Điều muốn biết ở một tiểu thuyết, một tác phẩm là nó có chất chứa những ý tưởng hay hay không (!). Người ta muốn đi tìm ở trong nó những nhận định, những ý tưởng khơi mở, thậm chí là ý tưởng khai phóng của tác giả.
    Những hình thức thể loại là sự cố gắng tìm tòi của người nghệ sĩ sáng tạo nhằm thể hiện gần nhất tư tưởng của tác giả, sự kỳ công trong bút pháp của tác giả nhằm dẫn dắt người đọc đi đến những suy tưởng mà tác giả muốn nói đến trong nội dung tác phẩm của họ. Thậm chí qua một tác phẩm hay, người đọc có thể chạm đến ý tưởng xa hơn thế.
    Một tác phẩm hay phải có nội dung hay.

  3. Câu đầu tiên đã “khó nuốt” rồi. Tiểu thuyết mà viết theo thi pháp là sao hở trời??? Truyền thống ở đây có nghĩa gì, phân định theo tiêu chí, niên đại nào??? Đ/c chủ bút ơi!

Bình Luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close Menu